Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2020

chúng tôi được biết, cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên trồng trong vùng đất quy hoạch

Cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên bén rễ đất Thái Nguyên từ 100 năm trước


Với nhãn hiệu cây chè và giá Chè Thái Nguyên "Con Hạc" của đất cây chè và giá Chè Thái Nguyên Tân Cương - Thái Nguyên đã được phong tặng danh hiệu "Đệ nhất danh trà" trong các cuộc thi về các sản phẩm trà tại Hà Nội. 



Ngày hội hái cây chè và giá Chè Thái Nguyên tại Thái Nguyên. (Ảnh: Minh Hải/TTXVN)

Ngày nay, sản phẩm cây chè và giá Chè Thái Nguyên đã trở thành đặc sản nổi tiếng của quê hương Thái Nguyên và kỷ lục quốc tế dành cho "Top các đặc sản quà tặng có giá trị ở châu Á". 

Không chỉ bó hẹp ở thị trường nội địa, cây chè và giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên hiện đã được xuất khẩu sang nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên khắp thế giới như Nga, Mỹ, Nhật Bản, các nước Châu Âu, vùng Trung Đông... 

Hiện Thái Nguyên là một trong hai tỉnh (cùng với Lâm Đồng) có diện tích trồng cây chè và giá Chè Thái Nguyên lớn nhất cả nước và nghề trồng cây chè và giá Chè Thái Nguyên, chế biến cây chè và giá Chè Thái Nguyên thực sự trở thành nghề truyền thống gắn bó, đem lại cuộc sống ổn định với hàng trăm nghìn hộ dân nơi đây.

Cây làm giàu

Có mặt tại xã Tân Cương, Thành phố Thái Nguyên - vùng cây chè và giá Chè Thái Nguyên đặc sản có truyền thống cũng như nổi tiếng nhất tỉnh Thái Nguyên, cửa hiệu bán cây chè và giá Chè Thái Nguyên đặc sản san sát trung tâm xã. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Phạm Văn Sỹ, cho biết nhờ cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên đặc sản nên nhiều năm nay, Tân Cương đã không còn hộ nghèo. 

Hiện nay, diện tích cây chè và giá Chè Thái Nguyên đặc sản trong xã đã phát triển lên hơn 300ha; một số cơ sở sản xuất, kinh doanh cây chè và giá Chè Thái Nguyên lớn trong xã như Tiến Yên, Thắng Hường, Hảo Đạt... có doanh thu hàng tỷ đồng mỗi năm từ chế biến và kinh doanh cây chè và giá Chè Thái Nguyên đặc sản. 

Thường thì thu nhập từ cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên cho giá trị bình quân trên 120 triệu đồng/ha/năm và hiện ở xã này có tới hơn 200 hộ có thu nhập từ 100 triệu đồng/năm trở lên nhờ cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên. Năm nay, Tân Cương đã đạt chuẩn xã nông thôn mới có sự đóng góp rất lớn từ cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên.

Để phát huy tiềm năng thế mạnh về cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên đặc sản, hiện thành phố Thái Nguyên đã quy hoạch, mở rộng vùng cây chè và giá Chè Thái Nguyên Tân Cương gồm các xã phía Tây như Tân Cương, Phúc Trìu, Phúc Xuân với tổng diện tích khoảng 1.300 ha cây chè và giá Chè Thái Nguyên; trong đó cây chè và giá Chè Thái Nguyên kinh doanh hơn 1.000 ha, sản lượng trung bình khoảng 14.000 tấn/năm, cho giá trị thu nhập hàng trăm tỷ đồng. 

Tại huyện Đại Từ, nông dân các xã chuyên canh cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên như Hùng Sơn, La Bằng, Phú Thịnh, Phú Xuyên... đã nâng diện tích cây chè và giá Chè Thái Nguyên lên hơn 5.400ha, chủ yếu là các giống cây chè và giá Chè Thái Nguyên mới, chất lượng cao, cho sản lượng gần 50.000 tấn/năm, giá trị thu nhập đạt từ 80 đến 100 triệu đồng/ha/năm.

Từ nghề làm cây chè và giá Chè Thái Nguyên, tỉnh đã có hơn 30 doanh nghiệp chế biến, kinh doanh, xuất khẩu cây chè và giá Chè Thái Nguyên, hơn 80 làng nghề sản xuất, chế biến cây chè và giá Chè Thái Nguyên được công nhận và 23 Hợp tác xã sản xuất cây chè và giá Chè Thái Nguyên. Tuy có tới hơn 80% sản lượng cây chè và giá Chè Thái Nguyên chế biến thủ công truyền thống nhưng trong khoảng 3 năm trở lại đây, mỗi năm, các doanh nghiệp vẫn xuất khẩu cây chè và giá Chè Thái Nguyên đạt hơn 10 triệu USD.

Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thái Nguyên, đến hết năm 2014, tổng diện tích cây chè và giá Chè Thái Nguyên toàn tỉnh là hơn 20.700 ha, tăng 3,6% so với cùng kỳ, trong đó diện tích cây chè và giá Chè Thái Nguyên cho sản phẩm là 17.618ha với năng suất bình quân đạt 109,4 tạ/ha, tăng 2,9 tạ/ha so với cùng kỳ; sản lượng cây chè và giá Chè Thái Nguyên búp tươi 192.700 tấn; diện tích cây chè và giá Chè Thái Nguyên trồng mới và trồng lại trên 1.700ha.

Nhờ việc đẩy mạnh chương trình cải tạo vườn cây chè và giá Chè Thái Nguyên, giống cây chè và giá Chè Thái Nguyên, đến năm 2014, toàn tỉnh Thái Nguyên đã có hơn 11.600ha cây chè và giá Chè Thái Nguyên giống mới, chất lượng cao, chiếm 56,4% so với tổng diện tích cây chè và giá Chè Thái Nguyên toàn tỉnh, giá trị sản phẩm của cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên theo giá hiện hành ước đạt 1.800 tỷ đồng, chiếm 27% tổng giá trị sản xuất ngành trồng trọt và chiếm 14% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp.

Điều đáng mừng hơn, do việc quảng bá thương hiệu cây chè và giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên được đẩy mạnh, giá cây chè và giá Chè Thái Nguyên ở Thái Nguyên trong 2 năm qua luôn ổn định, trung bình từ 150.000-300.000 đồng/kg cây chè và giá Chè Thái Nguyên búp khô tùy theo thời vụ và vùng sản xuất.

Một số vùng cây chè và giá Chè Thái Nguyên đặc sản như Tân Cương, Phúc Xuân (thành phố Thái Nguyên), La Bằng (Đại Từ) Trại Cài (Minh Lập, Đồng Hỷ), Tức Tranh (Phú Lương)... đã sản xuất một số sản phẩm cây chè và giá Chè Thái Nguyên cao cấp có giá trị cao với mức giá từ 600.000-2.500.000 đồng/kg cây chè và giá Chè Thái Nguyên búp khô, được thị trường tiêu thụ khá ổn định.

Nâng cao giá trị và phát triển bền vững


Trong mục tiêu phát triển cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên đến năm 2015, tỉnh Thái Nguyên phấn đấu đưa năng suất cây chè và giá Chè Thái Nguyên búp tươi đạt 120 tạ/ha, sản lượng đạt 200.000 tấn cây chè và giá Chè Thái Nguyên búp tươi/năm; 100% diện tích cây chè và giá Chè Thái Nguyên tại các vùng sản xuất cây chè và giá Chè Thái Nguyên tập trung đáp ứng yêu cầu sản xuất an toàn theo hướng thực hành nông nghiệp tốt (VietGAP)... 

Để đạt được các mục tiêu này, tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng dự án riêng về phát triển cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên với mức đầu tư trong 3 năm qua hơn 80 tỷ đồng, chủ yếu phục vụ việc quy hoạch vùng sản xuất cây chè và giá Chè Thái Nguyên an toàn, đầu tư cơ sở hạ tầng vùng cây chè và giá Chè Thái Nguyên an toàn, đầu tư cho thay thế giống...

Cùng với sự hưởng ứng tích cực và nguồn vốn tự đầu tư của người làm cây chè và giá Chè Thái Nguyên, đến thời điểm này, nhiều mục tiêu của dự án phát triển cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên đã cơ bản hoàn thành.

Tuy vậy, thực tế việc phát triển cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên ở Thái Nguyên vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là việc diện tích cây chè và giá Chè Thái Nguyên sản xuất theo quy trình VietGAP còn thấp. Hiện toàn tỉnh mới có trên 350ha cây chè và giá Chè Thái Nguyên được cấp chứng nhận VietGAP. 

Việc đầu tư phát triển cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên, nghề làm cây chè và giá Chè Thái Nguyên phần lớn mang tính tự phát, chưa thu hút được nhiều nguồn vốn từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào sản xuất, đặc biệt là đầu tư vào chế biến, xuất khẩu sản phẩm cây chè và giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên. 

Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cây chè và giá Chè Thái Nguyên chưa thực sự quan tâm đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, sản xuất các mặt hàng đặc thù tương xứng với giá trị cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên nên giá cây chè và giá Chè Thái Nguyên nguyên liệu xuất khẩu chỉ đạt từ 2,2 - 3,2 USD/kg. Việc tổ chức quản lý nhãn hiệu tập thể "cây chè và giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên" còn lỏng lẻo, thiếu đồng bộ, chưa có sự kiểm soát chặt chẽ.

Nhằm khắc phục những hạn chế này, tiếp tục phát triển cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên một cách bền vững, nâng cao giá trị cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp theo hướng tăng đầu tư, khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên, ngành cây chè và giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất, chế biến theo hướng sản xuất sản phẩm an toàn, chất lượng cao, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; trong thời gian tới đẩy mạnh thực hiện chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cây chè và giá Chè Thái Nguyên.

Ông Nguyễn Quốc Minh, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Thái Nguyên cho rằng, việc quan trọng nhất đó là quy hoạch vùng sản xuất cây chè và giá Chè Thái Nguyên nguyên liệu an toàn đến năm 2020 gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ cây chè và giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên; xây dựng vùng sản xuất nguyên liệu phục vụ doanh nghiệp trong và ngoài nước chế biến cây chè và giá Chè Thái Nguyên công nghiệp, ứng dụng công nghệ cao đầu tư vào tỉnh Thái Nguyên, mở rộng diện tích sản xuất cây chè và giá Chè Thái Nguyên chất lượng, an toàn có chứng nhận VietGAP.

Ngành nông nghiệp cũng tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng đồng bộ khoa học công nghệ mới trong sản xuất, chế biến cây chè và giá Chè Thái Nguyên, ứng dụng giống mới có năng suất, chất lượng tốt để sản xuất cây chè và giá Chè Thái Nguyên xanh chất lượng cao; đẩy mạnh hoạt động khuyến nông; xây dựng, nhân rộng mô hình trình diễn khuyến nông về sản xuất, chế biến cây chè và giá Chè Thái Nguyên, mô hình liên kết sản xuất, chế biến tiêu thụ cây chè và giá Chè Thái Nguyên; thiết lập các kênh phân phối hiệu quả, hỗ trợ doanh nghiệp đưa hàng vào siêu thị, xây dựng các điểm giới thiệu sản phẩm tại chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, tăng cường các hoạt động quảng bá, bán hàng trên kênh trực tuyến...

Riêng trong năm tới, Thái Nguyên tập trung hỗ trợ phát triển cây chè và giá Chè Thái Nguyên ở các huyện còn tiềm năng như Phú Bình, Võ Nhai, cải tạo vườn cây chè và giá Chè Thái Nguyên cũ, cây chè và giá Chè Thái Nguyên già năng suất thấp và tiếp tục quảng bá thương hiệu cây chè và giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên ra các tỉnh trong cả nước cũng như các thị trường tiêu thụ cây chè và giá Chè Thái Nguyên chủ lực trên thế giới./.

Thái Nguyên là tỉnh trung du miền núi, có nhiều thuận lợi cho việc phát triển các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, trong đó có cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên. Nhưng để có những chén trà xanh, mát, bổ, ngành nông nghiệp Thái Nguyên đang tổ chức lại sản xuất ngành cây chè và giá Chè Thái Nguyên theo hướng quy mô lớn tập trung, gắn với bảo quản, chế biến ứng dụng công nghệ cao.


Nông dân xã Tân Cương (TP Thái Nguyên) thu hoạch cây chè và giá Chè Thái Nguyên. Ảnh: Minh Huệ

Cơ cấu lại ngành cây chè và giá Chè Thái Nguyên

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thái Nguyên, hiện diện tích cây chè và giá Chè Thái Nguyên toàn tỉnh đạt gần 21 nghìn ha, cho sản lượng gần 193 nghìn tấn/năm. Mặc dù diện tích và sản lượng cây chè và giá Chè Thái Nguyên liên tục tăng, nhưng chủng loại, chất lượng, giá trị sản phẩm cây chè và giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên còn thấp, tính cạnh tranh chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của địa phương.

Toàn tỉnh hiện có 34 doanh nghiệp chế biến cây chè và giá Chè Thái Nguyên công nghiệp, trong đó có 17 doanh nghiệp hoạt động thu mua cây chè và giá Chè Thái Nguyên búp tươi để chế biến thành cây chè và giá Chè Thái Nguyên đen, cây chè và giá Chè Thái Nguyên xanh ướp hương liệu xuất khẩu sang các nước Trung Đông, một số nước khu vực châu Á và châu Âu, với sản lượng đạt gần 6.400 tấn/năm, chiếm 17% tổng sản lượng. Số lượng cây chè và giá Chè Thái Nguyên còn lại hầu hết được chế biến theo phương pháp thủ công truyền thống cho năng suất thấp, chất lượng sản phẩm không đồng đều. Trong khi cây chè và giá Chè Thái Nguyên chế biến bằng công nghiệp ứng dụng công nghệ cao hầu như chưa được quan tâm đầu tư nhiều, cho nên thị trường tiêu thụ cây chè và giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên chủ yếu vẫn là ở các chợ đầu mối, các đại lý trong tỉnh và một số thương lái.

Để khẳng định thương hiệu "cây chè và giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên", trên thị trường trong nước và quốc tế, ngành nông nghiệp Thái Nguyên đã từng bước triển khai thí điểm các mô hình sản xuất cây chè và giá Chè Thái Nguyên áp dụng quy trình thực hành nông nghiệp tốt theo tiêu chuẩn VietGap từ khâu sản xuất đến chế biến thành phẩm cuối cùng. Đến năm 2013 đã có 360 ha cây chè và giá Chè Thái Nguyên sản xuất được chứng nhận đủ tiêu chuẩn. Từ kết quả của những mô hình thí điểm, hiện nay tỉnh Thái Nguyên đang triển khai nhân rộng mô hình vùng sản xuất cây chè và giá Chè Thái Nguyên an toàn, với quy hoạch tổng diện tích 18.500ha, chiếm hơn 80% diện tích cây chè và giá Chè Thái Nguyên toàn tỉnh.

Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết, cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên trồng trong vùng đất quy hoạch được áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt theo các tiêu chuẩn VietGap, GlobalGap,... Theo đó, ngay từ khâu sản xuất giống, tỉnh đã lựa chọn và giao cho một số doanh nghiệp tập trung nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất trồng, thâm canh một số giống cây chè và giá Chè Thái Nguyên mới, bảo đảm sạch bệnh, cho năng suất, chất lượng cao, như giống cây chè và giá Chè Thái Nguyên LDP1, LDP2, PH8, PH9. Với mục tiêu cụ thể là đến năm 2020 phải có 70% diện tích cây chè và giá Chè Thái Nguyên sử dụng giống mới. Đồng thời tiếp tục phát triển một số giống cây chè và giá Chè Thái Nguyên có khả năng sinh trưởng phù hợp với chất đất ở địa phương, như Kim Tuyên, Phúc Văn Tiên... làm cơ sở phát triển sản xuất các loại cây chè và giá Chè Thái Nguyên ô long, cây chè và giá Chè Thái Nguyên xanh cao cấp.

Các nương cây chè và giá Chè Thái Nguyên ở vùng sản xuất tập trung được khảo sát, thiết kế phù hợp địa hình, địa vật, và chú ý đến cả yếu tố thời tiết trong khu vực. Nhất là các vườn ươm giống cây chè và giá Chè Thái Nguyên được đặc biệt quan tâm, vì thời gian nhân giống cây ở trong vườn từ 8 đến 10 tháng, nếu thời tiết không thuận lợi sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cây giống. Đến nay đã có nhiều dự án nghiên cứu, áp dụng quy trình kỹ thuật tưới, tiêu tiết kiệm, cơ giới hóa khâu làm đất, cũng như bón phân làm tăng hoạt tính sinh học đất, để cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên có thể "sống khỏe" trên mọi vùng đất được đưa vào áp dụng thành công.

Công nghệ sau thu hoạch cũng được ngành nông nghiệp tỉnh Thái Nguyên đặc biệt quan tâm. Một mặt tỉnh yêu cầu các cơ sở sơ chế, chế biến cây chè và giá Chè Thái Nguyên quy mô hộ, trang trại chủ động ứng dụng quy trình kỹ thuật sơ chế và chế biến cây chè và giá Chè Thái Nguyên thành phẩm bảo đảm an toàn thực phẩm, mặt khác khuyến khích các doanh nghiệp chế biến công nghiệp đầu tư ứng dụng công nghệ cao trong bảo quản, chế biến cây chè và giá Chè Thái Nguyên, phấn đấu đến năm 2020 hơn 30% sản lượng cây chè và giá Chè Thái Nguyên được chế biến bằng công nghệ tiên tiến.

Lợi đơn, lợi kép

Đại diện Doanh nghiệp tư nhân Linh Lượng, một trong những đơn vị đã tham gia Dự án Ứng dụng khoa học công nghệ xây dựng mô hình nhân giống cây chè và giá Chè Thái Nguyên trong giai đoạn 2011-2015 cho biết: Mỗi năm doanh nghiệp tạo ra 12 - 15 triệu cây cây chè và giá Chè Thái Nguyên giống đạt chất lượng theo tiêu chuẩn của ngành. Mỗi héc-ta cây chè và giá Chè Thái Nguyên giống cũ được thay thế bằng cây chè và giá Chè Thái Nguyên giống mới đem lại hiệu quả kinh tế tăng từ 10 - 20% tổng thu nhập bình quân của năm. Tính đến hết năm 2014, tỉnh Thái Nguyên đã trồng mới và trồng thay thế được hơn 7.500 ha cây chè và giá Chè Thái Nguyên giống mới LDP1, PH8, PH9 và nhân rộng các giống nhập nội như Kim Tuyên, Phúc Văn Tiên,... Với năng suất cây chè và giá Chè Thái Nguyên bình quân đạt gần 11 tấn/ha/năm, tăng 2 tấn/ha so với năm 2010. Ngoài ra, các mô hình trồng cây chè và giá Chè Thái Nguyên tập trung đã góp phần tạo cảnh quan môi trường đẹp, góp phần gắn việc phát triển của ngành cây chè và giá Chè Thái Nguyên với du lịch sinh thái, du lịch làng nghề ở nhiều địa phương.

Anh Trần Văn Thắng, chủ một cơ sở sản xuất, chế biến cây chè và giá Chè Thái Nguyên ở xóm Hồng Thái 2, xã Tân Cương chia sẻ: Từ ngày đặc sản cây chè và giá Chè Thái Nguyên Tân Cương được địa phương quan tâm phát triển theo hướng nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm nên được nhiều người biết đến.

Quan trọng hơn, bên cạnh việc kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ở xã miền núi Tân Cương cũng được cải thiện rõ rệt. Đó là khẳng định của Phó Chủ tịch UBND xã Tân Cương Nguyễn Ngọc Tân khi cho chúng tôi biết: Năm 2014, thu nhập bình quân đầu người trong xã đạt gần 30 triệu đồng/năm; toàn xã có gần 1.500 hộ dân thì chỉ còn 32 hộ nghèo, chiếm 2,2%. Hiện Tân Cương đã xây dựng thành công nhiều mô hình kinh tế làm ăn có hiệu quả, trong đó ngoài đặc sản cây chè và giá Chè Thái Nguyên Tân Cương được cả nước biết đến, còn có vùng cây ăn quả ở xóm Soi Vàng, Nam Thái; chăn nuôi tập trung ở Lam Sơn; trồng cây màu các loại ở xóm Y Na 1, Y Na 2, ngoài ra còn phát triển trồng rừng ở Tân Thái...

Nhờ tổ chức lại sản xuất, đến nay Tân Cương không chỉ xóa hoàn toàn nhà tạm bợ, dột nát, mà còn là một trong những xã miền núi đầu tiên của tỉnh Thái Nguyên hoàn thành xây dựng nông thôn mới.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét