Đánh thức vùng chè Thái Nguyên, Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên
POSTED ON 01/11/2019
Vùng chè Thái Nguyên, Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên được biết đến với thương hiệu Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên B’lao (TP Tân Cương), Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên Cầu Đất (huyện Lạc Dương) từ những năm trước giải phóng. Hương vị Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên B’lao là niềm tự hào của người dân xứ Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên cao nguyên. Và hương thơm của vùng chè cao nguyên này sẽ còn bay xa trong những năm tới.
Tự hào thương hiệu Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên B’Lao
Dọc theo quốc lộ 20, về đến địa phận xã Lộc Tiến (Tân Cương) gặp ngay một con dốc dài hơn 200 m, du khách cảm thấy thích thú bởi được thưởng thức một hương vị thơm đặc biệt của vùng Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên B’lao, đó là loại Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên được ướp hương lài. Hai bên đường là những dãy nhà cao tầng san sát với những danh Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên nổi tiếng lâu năm như Trâm Anh, Tiếng Hương, Ngọc Châu, Đỗ Hữu… và người dân nơi đây đặt tên con dốc này là “dốc Đỗ Hữu”- một trong những danh Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên đầu tiên của Tân Cương năm 1956 và đã tạo dựng được danh tiếng về loại Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên ướp lài B’lao cho đến sau này.
Lịch sử vùng Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên có thể kể đến thời điểm xuất hiện đầu tiên ở Thái Nguyên vào năm 1927 tại Cầu Đất (Đà Lạt), sau đó theo quá trình hình thành và phát triển, Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên có mặt tại Di Linh và Tân Cương sau năm 1930, khi thực dân Pháp đã cơ bản hoàn thành con đường quốc lộ 20 từ Đà Lạt đi Sài Gòn. Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên là một trong những loại cây công nghiệp xuất hiện sớm nhất ở vùng đất B’lao và khẳng định được vị trí chủ đạo của mình ở vùng đất này, bắt đầu từ những đồn điền của người Pháp như: Felit B’lao, B’lao Sierré…
Sau này những làn sóng dân nhập cư tiếp tục lên vùng cao nguyên này khai phá đất hoang. Đất rộng người thưa họ thỏa sức đốt nương, làm rẫy khai phá đất hoang tạo ra những vùng chè bạt ngàn của vùng đất Lộc Phát, Lộc Thanh, Lộc Tân, Lộc Bắc… Sau giải phóng những cái tên mới như vùng Lộc Tân, DamBri (từ năm 1980) chủ yếu là người miền Trung, Thanh – Nghệ Tĩnh và một phần từ tỉnh Hà Sơn Bình (cũ). Họ vào theo chủ trương trồng dâu nuôi tằm của Tổng Công ty Dâu tằm tơ Việt Nam nhưng bên cạnh những đồi dâu thì vẫn xuất hiện những vườn Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên cho thu nhập ngắn ngày. Và sau này khi dâu tằm thất thế, thì những đồi dâu đã được nhanh chóng chuyển sang trồng Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên.
Thương hiệu Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên B’lao hiện đang phai mờ dần do trong nền kinh tế hội nhập, các doanh nghiệp Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên cũng đã chuyển mình để tạo dựng thương hiệu riêng. Các sản phẩm Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên truyền thống được chú trọng thay đổi mẫu mã, kiểu dáng nâng cao tính cạnh tranh. Không chỉ còn phân phối sản phẩm theo hướng chào hàng, các doanh nghiệp này còn xây dựng các showroom kết hợp với các chỗ dừng chân thoải mái, tiện nghi, thu hút rất nhiều khách du lịch tham quan. Khách du lịch đi ngang qua địa phận Tân Cương đều rất ấn tượng khi ghé thăm những hãng Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên như Trâm Anh, Tâm Châu để được thưởng thức trong một không gian Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên thú vị với những thiếu nữ cao nguyên rất duyên dáng và am tường về các sản phẩm Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên cũng như cách thức pha chế.
Trăn trở trên những đồi chè
Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên được tỉnh Thái Nguyên xác định là cây xóa đói, giảm nghèo và làm giàu của nông dân, đồng thời là một trong những cây công nghiệp chủ lực, có lợi thế trong nền kinh tế thị trường. Hiện nay, Thái Nguyên có diện tích trồng Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên lớn nhất nước khoảng 26.000 ha, hàng năm cung cấp cho thị trường trong và ngoài nước khoảng 184.000 tấn. Tính ra Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên tỉnh Thái Nguyên đã chiếm tỷ lệ 25% về diện tích và 27% về sản lượng chè của cả nước.
Với lợi thế về khí hậu ôn hòa với hai mùa mưa nắng, vùng đất đỏ bazan, có độ ẩm cao rất phù hợp cho cây công nghiệp như chè và cà phê. Tuy nhiên, những người dân trồng Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên vùng Thái Nguyên vẫn “một nắng hai sương” và trăn trở về thu nhập bên những đồi chè bạt ngàn.
Tại Thái Nguyên, Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên được trồng tập trung chủ yếu ở Tân Cương, Tân Cương, Di Linh. Do Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên đã được trồng từ những năm 20 của thế kỷ trước nên nhiều diện tích chè nơi đây nay đã già cỗi, năng suất thấp. Do cách thức trồng trọt và kĩ thuật canh tác lạc hậu, nên gần như đất ở vùng nguyên liệu chè này vẫn chưa tạo được chỗ đứng trên thị trường. Phần lớn vùng chè của người dân hiện vẫn là chè hạt, hiệu quả kinh tế không cao. Giá cả lên xuống bấp bênh và thường xuyên bị ép giá.
Chị Nguyễn Thị Tâm, ở phường Lộc Phát (Tân Cương) có 3 ha chè của bố mẹ để lại cho, chồng có nghề thợ xây làm thêm nhưng vẫn không đủ nuôi hai đứa con học đại học. So với những gia đình khác, thì gia đình chị có một nền tảng kinh tế vững vàng hơn, thế nhưng sự bấp bênh từ thu nhập của Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên vẫn là nỗi ám ảnh đeo bám chị suốt 15 năm qua. Chị cho biết, nếu giá chè tươi từ 2.300 đồng/kg đến 2.700 đồng/kg, thì mỗi ha cho doanh thu khoảng 2,3 triệu đồng/tháng, đó là chưa tính công thuê cào cỏ và phân bón, chăm sóc. Đặc biệt vào mùa mưa, khi mà chè bung đọt, năng suất tăng lên thì lại bị các thương lái ép giá có khi xuống còn 1.000đồng/kg, chỉ vừa đủ trả tiền công.
Điều bất hợp lý vẫn tồn tại làm cho ngành chè vẫn lận đận, đó là nguồn nguyên liệu chè thì phong phú, đa dạng nhưng người nông dân và các doanh nghiệp sản xuất chế biến chè ở Thái Nguyên vẫn chưa tìm được tiếng nói chung trong việc liên kết sản xuất. Nông dân thì cứ tự phát mở rộng diện tích chè, tự chọn giống, còn doanh nghiệp thì không ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm.
Thị trường bấp bênh, giá chè trồi sụt thất thường lại không có được sự định hướng của các ngành chức năng khiến cho nông dân ngành chè loay hoay tìm kiếm trồng cây gì chỉ để mong được ổn định cuộc sống. Đã có những thời điểm hàng chục ngàn ha chè bị đốn hạ để chuyển sang trồng cà phê, rồi lại phá bỏ cà phê trồng lại chè tạo nên cái vòng lẩn quẩn và bế tắc.
Hướng đến vùng chè chất lượng cao
Những năm 90 khi mà cây cà phê đang chiếm ưu thế, thì xuất hiện những doanh nghiệp từ Đài Loan (TQ) lên vùng cao nguyên Tân Cương, Di Linh đầu tư trồng giống chè Ô Long để sản xuất ra loại Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên Ô Long nổi tiếng. Cách làm của doanh nghiệp này cũng rất đặc biệt. Họ mang giống từ Đài Loan qua và thuê nhân công ươm giống, khi có giống chè nhiều họ mới trồng. Rồi họ xây nhà máy chế biến ngay tại chỗ. Với phương thức trồng trọt hiện đại, kĩ thuật công nghệ tiên tiến, họ đã tạo ra một làn sóng trồng Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên chất lượng cao tại Tân Cương và các huyện lân cận. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng nhanh chân nhảy vào thị phần này, trong đó thương hiệu Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên Ô Long Tâm Châu hiện khá nổi tiếng phân phối khá nhiều thị trường trong nước đã tạo nên diện mạo mới cho vùng chè Thái Nguyên, Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên.
Xây dựng vùng chè chất lượng cao đảm bảo tính cạnh tranh và nâng cao giá trị thương hiệu chè Thái Nguyên, Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên là đã được các cơ quan chức năng tính đến. Theo quy hoạch phát triển Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên của tỉnh Thái Nguyên sẽ nâng diện tích Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên chất lượng cao lên 14.000 ha, tương đương 55% (hiện nay tổng diện tích 26.000 ha). Trong số các địa phương trồng Chè Thái Nguyên hay Giá Chè Thái Nguyên chất lượng cao có thể kể đến huyện Tân Cương hiện có 1.500 ha với các giống chè cao sản TB14, LĐ97 và các giống chè chất lượng cao Ô Long, Ngọc Thúy, Kim Tuyên, Tứ Quý cho thu nhập cao hơn so với loại chè hạt truyền thống đã nhân rộng.
Tại các diễn đàn, hội thảo, ý kiến của những chuyên gia và các doanh nghiệp trong lĩnh vực chè đều cho rằng, muốn nâng cao chất lượng chè, trước hết phải từ cây giống, sau đó đến công nghệ sản xuất. Nhưng muốn đảm bảo tính phát triển bền vững của ngành chè thì phải tạo được mối liên kết chặt chẽ với vùng nguyên liệu (bài toán muôn thưở của ngành nông nghiệp Việt Nam). Gần 90% diện tích chè trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên là của nông dân, trong khi vùng nguyên liệu của các doanh nghiệp chỉ đáp ứng 50% cho nhà máy của họ sản xuất. Vì vậy xu hướng doanh nghiệp liên kết bao tiêu sản phẩm nhằm đảm bảo lợi ích cho người dân và doanh nghiệp đã được thực hiện. Các doanh nghiệp nước ngoài như Haiyih, Fusheng… cũng thuê đất tại TP Đà Lạt, và thị xã Tân Cương và giao khoán cho nông dân sản xuất. Mới đây doanh nghiệp tư nhân Phương Nam đã liên kết với một gia đình tại xã Lộc Sơn (Tân Cương) trồng hơn 50 ha chè chất lượng cao. Mô hình liên kết này cho thấy khá hiệu quả: Nông dân được doanh nghiệp hỗ trợ khoa học kỹ thuật, vật tư nông nghiệp và bao tiêu sản phẩm. Ngoài ra, người nông dân thể hiện được trách nhiệm cũng như ý thức với sản phẩm của mình, đầu ra của sản phẩm được đảm bảo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét