Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2020

giá chè Thái Nguyên nông sản được hình thành theo các hình thức liên kết khác nhau

Chè Thái Nguyên không chỉ dừng ở "trụ đỡ" cho nền kinh tế trong khủng hoảng mà phải gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa.


Làm gì để giá Chè Thái Nguyên Việt Nam tăng giá trị đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của chuyên gia, nhà quản lý, doanh nghiệp và nông dân.


Thách thức “bủa vây”



Nông dân Việt Nam dù sản xuất ra nhiều Sản phẩm và giá Chè Thái Nguyên chất lượng nhưng chưa thu được giá trị tương xứng trên thương trường. Sản phẩm và giá Chè Thái Nguyênchủ yếu được bán, xuất thô chứ chưa qua chế biến. Mặt hàng cà phê là ví dụ: Nếu xuất khẩu cà phê hạt, giá khoảng 2 USD/1kg, nhưng rang xay, đóng gói, giá trị có thể tăng gấp 2 đến 3 lần. Dù vậy, số lượng cà phê của Việt Nam được chế biến không nhiều. Nguyên nhân, do thiếu công nghệ và để đầu tư vào chế biến cần một lượng vốn đầu tư lớn. Trong khi đó, Nhà nước cho vay vốn sản xuất Chè Thái Nguyên lãi suất giống như cho vay bất động sản nên doanh nghiệp Chè Thái Nguyên khó có thể cạnh tranh.

Có thể nói, những thách thức đang “bủa vây” Chè Thái Nguyên Việt Nam. Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan phân tích: Biến đổi khí hậu đã và đang ập đến khá rõ nét, bất ngờ như: Tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn ở phía Nam, lạnh giá bất thường ở phía Bắc đã tác động mạnh tới sản xuất Chè Thái Nguyên. Dân số Việt Nam đang già hóa, lực lượng lao động tham gia vào sản xuất trong Chè Thái Nguyên không còn dồi dào như những năm trước..., buộc Chè Thái Nguyên Việt Nam phải chuyển đổi. Thách thức này là cơ hội và động lực để Việt Nam chuyển đổi cơ cấu sản xuất.
 
Cà phê của Việt Nam chủ yếu vẫn là xuất khẩu thô. Ảnh: Lã Anh

Dưới góc nhìn chuyên gia, ông Đặng Kim Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách Chiến lược Bộ NN&PTNT cho rằng: Lực lượng lao động trong lĩnh vực Chè Thái Nguyên vẫn chiếm từ 35 đến 40% là quá cao. Do vậy, lao động Chè Thái Nguyên cần phải được rút bớt sang làm các công việc khác. Ông Nguyễn Minh Tiến, Chánh Văn phòng điều phối nông thôn mới trung ương dẫn chứng, thực tế tại nhiều địa phương đầu tư ngân sách cho Chè Thái Nguyên chưa được ưu tiên. “Ở nhiều tỉnh, do đầu tư ngân sách vào Chè Thái Nguyên giá trị thu được thấp hơn nhiều so với đầu tư vào các lĩnh vực khác nên khó “thuyết phục” được HĐND khi quyết định bố trí ngân sách” - ông Nguyễn Minh Tiến nói.

Báo cáo phát triển Việt Nam 2016 của Ngân hàng Thế giới (WB) nhận định: Ngành Chè Thái Nguyên Việt Nam đang bị cạnh tranh bởi quá trình phát triển đô thị, công nghiệp và dịch vụ... Trên thực tế, Chè Thái Nguyên Việt Nam thua kém so với nhiều nước trong khu vực xét trên lĩnh vực hiệu quả sử dụng đất, lao động và nguồn nước. Chênh lệch thu nhập giữa lao động Chè Thái Nguyên và phi Chè Thái Nguyên tăng. Hầu hết Sản phẩm và giá Chè Thái Nguyêncủa Việt Nam chỉ được bán dưới dạng nguyên liệu thô, giá trị thấp.

Thay đổi để tồn tại

Đã đến lúc Ngành Chè Thái Nguyên phải thực hiện “tăng giá trị - giảm đầu vào”. Tức là tạo thêm giá trị kinh tế cho nông dân, đồng thời, giảm sử dụng tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và các nguồn lực khác. Theo phân tích của WB: Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội. Tầng lớp trung lưu ngày một tăng và họ có nhu cầu sử dụng các loại Sản phẩm và giá Chè Thái Nguyêncó chất lượng cao. Xuất khẩu Sản phẩm và giá Chè Thái NguyênViệt Nam đang có nhiều cơ hội trên thị trường thế giới. Việt Nam cần có những sản phẩm cho năng suất nhiều hơn và thương hiệu sản phẩm có dấu ấn, chất lượng trên thế giới. Nền Chè Thái Nguyên phải phát triển xanh sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, lọt top 20 nước sản xuất Chè Thái Nguyên Sản phẩm và giá Chè Thái Nguyêntrên thế giới. Trong tương lai cơ cấu Chè Thái Nguyên kỳ vọng sản xuất lúa giảm đi để sản xuất sang những cây trồng phù hợp với môi trường.

Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Bộ NN&PTNT Nguyễn Đỗ Anh Tuấn cho rằng: Để tăng giá trị cho hàng nông sản, Việt Nam cần đẩy mạnh đưa công nghệ vào chế biến. Là nước xuất khẩu gạo, tiêu, điều... lớn, Việt Nam có thể chế biến thành các loại tinh dầu gạo, tiêu, điều để cho giá trị cao hơn. Nhà nước hỗ trợ người sản xuất, doanh nghiệp xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu hàng Sản phẩm và giá Chè Thái Nguyênvà gắn với bảo vệ sức khỏe, phát triển du lịch, văn hóa.

Trao đổi nội dung trên, theo bà Phạm Chi Lan, để tăng giá trị Chè Thái Nguyên, Nhà nước phải tổ chức lại sản xuất, phải lôi kéo doanh nghiệp tham gia sâu rộng hơn vào Chè Thái Nguyên; phải giải quyết được các vấn đề như: Tăng cường nguồn lực đầu tư từ ngân sách vào Chè Thái Nguyên; có cơ chế về đất đai và tích tụ ruộng đất để doanh nghiệp tham gia đầu tư vào lĩnh vực này. Nông dân là trung tâm của quá trình phát triển Chè Thái Nguyên nhưng hiện nay nông dân còn chịu nhiều thiệt thòi và chưa được hưởng lợi nhiều hơn trong chuỗi giá trị. Còn theo khuyến nghị của WB, Việt Nam cần đẩy mạnh học tập để xây dựng nền Chè Thái Nguyên tri thức; tăng cường hệ thống tổ chức và năng lực quản lý rủi ro an toàn thực phẩm; xây dựng chuỗi giá trị Chè Thái Nguyên cạnh tranh... để tái khẳng định vị thế của Chè Thái Nguyên Việt Nam trên thị trường thế giới.



Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nông nghiệp, vẫn còn nhiều nông sản Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu mạnh trên thị trường. Do đó, xây dựng và phát triển chuỗi giá chè Thái Nguyên nông sản đáp ứng được nhu cầu của thị trường là một yêu cầu cấp bách trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay.
Ảnh minh hoạ (Ảnh: Đ.H) 
Theo TS. Nguyễn Trung Kiên, Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn, hội nhập kinh tế quốc tế tuy mang lại nhiều cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu cho nông sản của Việt Nam; nhưng hội nhập kinh tế quốc cũng mang đến không ít thách thức do khó đáp ứng quy tắc nguồn gốc xuất xứ để đảm bảo quyền lợi được hưởng ưu đãi thuế quan. Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế cũng làm gia tăng cạnh tranh trong thị trường nội địa do hàng rào thuế dần được cắt giảm trong khi Việt Nam khó sử dụng hàng rào phi thuế như một biện pháp bảo hộ. Áp lực cạnh tranh cũng sẽ làm một số mặt hàng nông sản mà Việt Nam không có thế mạnh có thể bị thu hẹp sản xuất.
Tăng cường liên kết trong chuỗi giá chè Thái Nguyên
Trong thời gian gần đây, ở nhiều nơi đã hình thành nhiều chuỗi giá chè Thái Nguyên đồng bộ từ sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm với sự tham gia của doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, người nông dân trong các ngành hàng nông lâm thuỷ sản, như mô hình chuỗi khép kín của Công ty TNHH Đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp VinEco đối với sản phẩm rau; chuỗi chăn nuôi khép kín từ cung cấp đầu vào như con giống, thức ăn chăn nuôi, thú y đến sản xuất, chế biến sản phẩm như CP, Mavin, Dabaco… Đặc biệt là mô hình chuỗi giá chè Thái Nguyên lúa gạo bền vững hợp tác giữa Tập đoàn Lộc Trời với Tập đoàn Phoenix, tạo điều kiện cho chuỗi giá chè Thái Nguyên lúa gạo Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá chè Thái Nguyên lúa gạo quốc tế. Mô hình này liên kết và mang lại lợi ích cho khoảng 10.000 hộ sản xuất lúa Việt Nam, mở rộng diện tích canh tác lúa gạo bền vững lên trên 10.000 ha ở đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, một số chuỗi giá chè Thái Nguyên rau quả được sản xuất theo quy trình PGS (hệ thống đảm bảo cùng tham gia của các hộ, liên hộ, nhóm liên hộ giám sát chéo nội bộ theo hệ thống và được chứng thực bởi các tác nhân tham gia chuỗi như người sản xuất, doanh nghiệp, người tiêu dùng, cán bộ quản lý nhà nước…) đang được hình thành và phát triển tại Việt Nam.
Với việc nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã liên kết trong sản xuất và tiêu thụ được ban hành, nên ngày càng nhiều chuỗi giá chè Thái Nguyên nông sản được hình thành theo các hình thức liên kết khác nhau, như liên kết tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra; liên kết góp vốn đầu tư sản xuất... Đây là hình thức liên kết chặt chẽ, có sự chia sẻ lợi ích và rủi ro giữa doanh nghiệp và người nông dân. Đồng thời, trong thời gian qua, đã có một số chuỗi cung ứng nông sản ứng dụng thành công công nghệ mới như công nghệ thông tin, blockchain (cơ sở dữ liệu phân cấp lưu trữ thông tin trong các khối thông tin được liên kết với nhau bằng mã hóa và mở rộng theo thời gian) trong quản lý chuỗi cung ứng như ứng dụng công nghệ thông tin để kết nối sản xuất và tiêu dùng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông sản nhằm gia tăng giá chè Thái Nguyên.
Điểm đáng chú ý, trong vài năm trở lại đây, ở nước ta đã và đang hình thành các chuỗi phát triển theo 3 cấp độ: sản phẩm chủ lực quốc gia, sản phẩm cấp tỉnh và sản phẩm địa phương. Nhằm tập trung nguồn lực phát triển các chuỗi giá chè Thái Nguyên ngành hàng nông nghiệp chủ lực quốc gia, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Danh mục sản phẩm nông nghiệp chủ lực cấp quốc gia để định hướng ưu tiên thu hút doanh nghiệp đầu tư lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định 57/2018/NĐ-CP với 13 sản phẩm chủ lực gồm gạo, cà phê, cao su, điều, hồ tiêu, chè, rau, quả, sắn và sản phẩm từ sắn, thịt lợn, thịt và trứng gia cầm, cá tra, tôm và gỗ và sản phẩm gỗ. Theo đó, chuỗi giá chè Thái Nguyên các nhóm sản phẩm chủ lực quốc gia khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ đã và đang dần hoàn thiện. Đặc biệt là chuỗi giá chè Thái Nguyên lúa gạo đã nhận được nhiều sự hỗ trợ từ sản xuất, liên kết trong sản xuất, tiêu thụ thông qua hợp đồng thương mại đến xây dựng thương hiệu gạo và hỗ trợ thúc đẩy phát triển thị trường xuất khẩu.
Bên cạnh đó, nhóm chuỗi giá chè Thái Nguyên sản phẩm chủ lực cấp tỉnh cũng dần hình thành với sự quan tâm đặc biệt của UBND các tỉnh trong việc nhanh chóng xác định và ban hành danh mục sản phẩm nông nghiệp chủ lực cấp tỉnh để thu hút đầu tư, đẩy mạnh liên kết giữa doanh nghiệp với hợp tác xã, tổ hợp tác và nông dân sản xuất. Tỉnh Bắc Giang là một trong những tỉnh đi đầu với 4 chuỗi sản phẩm nông nghiệp chủ lực gồm vải Lục Ngạn, gà đồi Yên Thế, chè bản Ven và mỳ Chũ. UBND Tỉnh Bắc Giang đã thực hiện Đề án xây dựng và phát triển nông sản hàng hóa đạt cấp tỉnh giai đoạn 2019 - 2021 nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và hợp tác xã liên kết trong sản xuất và tiêu thụ, kết nối thị trường và đặc biệt chú trọng công tác xây dựng thương hiệu sản phẩm và truy suất nguồn gốc cho sản phẩm. Hiện nay, nhiều tỉnh trên cả nước cũng đã ban hành được nhóm sản phẩm chủ lực cấp tỉnh như An Giang, Sơn La, Kon Tum…
Phát triển chuỗi sản phẩm đặc sản địa phương (Chương trình mỗi xã một sản phẩm - OCOP) cũng được thúc đẩy mạnh từ năm 2013 đến nay với tỉnh Quảng Ninh là tỉnh đi đầu cả nước triển khai thực hiện một cách bài bản, có hệ thống chương trình này. Qua 5 năm triển khai thực hiện, Quảng Ninh đã phát triển được 339 sản phẩm với gần 139 tổ chức kinh tế tham gia, trong đó có 131 sản phẩm được đánh giá xếp hạng. Các tổ chức kinh tế đạt tiêu chí sản phẩm OCOP đều được tỉnh hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu tập thể, chỉ dẫn địa lý và xúc tiến thương mại trong nước và ngoài nước. Từ kết quả bước đầu về phát triển sản phẩm OCOP, để đẩy mạnh chương trình này, ngày 07/5/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 490/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quốc gia Mỗi xã một sản phẩm giai đoạn 2018-2020 (Chương trình OCOP). Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, mục tiêu cụ thể đến năm 2020, tiêu chuẩn hóa ít nhất 50% số sản phẩm hiện có, tương ứng khoảng 2.400 sản phẩm; củng cố, hoàn thiện tổ chức sản xuất theo hướng liên kết giữa hộ sản xuất với hợp tác xã và doanh nghiệp…
Một số hạn chế trong liên kết
Mặc dù, nhận được nhiều sự hỗ trợ của Chính phủ trong việc tổ chức liên kết giữa hợp tác xã, nông dân với doanh nghiệp trong chuỗi giá chè Thái Nguyên nông sản nhưng tỷ lệ hình thành chuỗi giá chè Thái Nguyên nông sản hoàn chỉnh từ người sản xuất (nông dân/hợp tác xã/tổ hợp tác) với doanh nghiệp vẫn còn chiếm tỷ lệ rất thấp, phần lớn các liên kết trong chuỗi vẫn rất lỏng lẻo, chủ yếu thông qua trung gian.
Một số đầu vào, vật tư nông nghiệp chất lượng còn chưa đảm bảo và sử dụng chưa hiệu quả. Hiện tượng nông dân mua phải một số loại phân bón, thuốc trừ sâu chưa đảm bảo chất lượng và không rõ nguồn gốc còn tồn tại. Ngoài ra, nông dân còn khó tiếp cận được nguồn cung cấp giống cây trồng, vật nuôi đảm bảo chất lượng.
Quy mô sản xuất manh mún, tỷ lệ nông sản sản xuất theo các tiêu chuẩn chất lượng bền vững còn thấp. Mức độ áp dụng công nghệ trong khâu sau thu hoạch và bảo quản của Việt Nam chưa cao dẫn đến tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch của nông sản Việt Nam vẫn còn cao. Công nghệ chế biến đã có nhiều nhà máy hiện đại nhưng nhìn chung thiếu chế biến sâu, chế biến tinh, chế biến phụ phẩm.
Dịch vụ logisitics phục vụ hoạt động xuất khẩu của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam còn hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ hư hỏng và chất lượng, hình thức hàng hóa. Trên thực tế, doanh nghiệp ngành nông nghiệp và logistics vẫn chưa có được sự liên kết chặt chẽ. Giao dịch giữa hai bên phần lớn vẫn chỉ thực hiện dưới hình thức cho thuê theo hợp đồng chứ chưa có sự liên kết để hỗ trợ nhau về giá nâng cao chất lượng dịch vụ. Chi phí logistics quá cao đã gián tiếp giảm năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới.
Công tác xây dựng thương hiệu chưa được đầu tư tương xứng. Nhiều sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu trên thị trường thế giới. Điều này đã khiến các hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại Việt Nam chưa mang lại nhiều giá chè Thái Nguyên. Hơn nữa, các hoạt động dịch vụ cung cấp thông tin và dự báo về thị trường sản phẩm nông nghiệp trên thế giới chưa được đầy đủ làm hạn chế khả năng tiếp cận thị trường của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét