Thứ Tư, 8 tháng 7, 2020

Trà Thái Nguyên xuất khẩu của Việt Nam bị trả lại tại hội nghị nói trên âu cũng là lẽ thường tình.

Hàng chục container chè Thái Nguyên bị trả lại


GĐ một DN chuyên XK chè (đề nghị không nêu tên) cho biết, việc hơn chục container chè Thái Nguyên XK từ Việt Nam sang một số nước EU cũng như Đài Loan bị trả lại là việc có thật.

Ông này khẳng định, mới đây nhất, trung tuần tháng 4, đã có đến 3 container giá Chè Thái Nguyên bị phía Đài Loan trả lại.
DN chế biến chè của vị GĐ trên tuy là một trong không nhiều đơn vị XK chè lớn nhất Việt Nam và chiếm thị phần XK khoảng 15% trong tổng kim ngạch XK mặt hàng nông sản này, nhưng cách đây không lâu cũng “dính” một container chè bị phía Đài Loan cho “hồi hương”.
Theo ông, một trong những nguyên nhân khiến giá Chè Thái Nguyên bị trả lại là do lượng tồn dư thuốc BVTV trong chè thành phẩm quá lớn, có những thành tố thuốc BVTV vượt cả chục lần ngưỡng cho phép.
Vị lãnh đạo DN chè trên cũng cho biết, đây không phải là lần đầu tiên chè có xuất xứ từ Việt Nam bị trả lại. Từ năm 2012, nhiều lô hàng XK sang châu Âu bị trả về do tồn dư hàm lượng hóa chất vượt quá mức cho phép.
Số hàng bị trả về được thông báo có dư lượng 2 hoạt chất thuốc BVTV Acetamiprid và Imidacloprid vượt mức cho phép của các nước EU - khu vực được coi là có những quy định khá ngặt nghèo về tiêu chuẩn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Tại Việt Nam, hiện nay trong danh mục thuốc BVTV, 2 hợp chất này vẫn được phép sử dụng trên chè.
“Thực tế, không phải 2 hoạt chất trên bị vượt quá dư lượng, mà có đến 6 hoạt chất là Fipronil, Acetamiprip, Imidacloprid, Carbendazim, Cypermethrin và Buprofezin. Đây là những hoạt chất mà các nước NK chè của Việt Nam, đặc biệt là EU và Đài Loan nghiêm cấm sử dụng”, vị GĐ nói.
“Chỉ tạo ra khoảng 200 tấn sản phẩm XK mỗi năm, song Việt Nam hiện có xấp xỉ 700 nhà máy chế biến chè, ngoài ra còn có vô số cơ sở chế biến thủ công của các hộ gia đình.
Không chỉ vậy ngành trồng giá Chè Thái Nguyên cũng cho thấy một thực tế là SX có công suất rất thấp, hiệu quả hạn chế. Chưa hết, đội ngũ thương lái luôn ép giá nông dân ngày càng nhiều, dẫn đến tình trạng người trồng chè luôn bị nhiều thua thiệt”, vị lãnh đạo này chỉ rõ nguyên nhân.
Chính vì vậy, mối quan hệ giữa người nông dân và DN không mặn mà và chẳng có ràng buộc gì nhiều. Người trồng chè chuyển sang chủ động tìm nguồn giống, tự xây dựng quy trình chăm sóc và bán sản phẩm của mình cho thương lái với giá thị trường.
Theo Vitas, để ngành chè phát triển bền vững, trong thời gian tới phải tổ chức thành chuỗi giá trị từ người trồng chè đến DN chế biến và tiêu thụ. Trước hết nhà nước phải quy hoạch về vùng nguyên liệu và chế biến phù hợp, quản lý được quy trình đảm bảo an toàn thực phẩm, tăng cường chất lượng sản phẩm. 
Việc chạy theo lợi nhuận tất yếu khiến người trồng chè chỉ quan tâm đến sản lượng. Việc sử dụng các hóa chất nhằm tăng năng suất cũng như tránh rủi ro dịch bệnh được áp dụng giá Trà Thái Nguyênn lan. Đây chính là lý do sản phẩm chè do các DN thu gom và XK bị trả về như đã đề cập.
 Hàng trả lại vẫn bị đánh thuế NK
Chưa hết, khi chè XK bị các nước NK trả lại, ngành giá Chè Thái Nguyên lại tiếp tục đối mặt với khó khăn khi ngay chính các container hàng này về đến cảng vẫn bị hải quan áp thuế với mức thuế NK 40% đối với hàng nông sản từ các nước không có quan hệ thương mại với nước ta bằng các hiệp định thương mại tự do. Như vậy, vô hình chung, mặt hàng chè của Việt Nam mang đi XK mà bị trả lại phải chịu 2 lần thuế.
Theo Hiệp hội Giá Chè Thái Nguyên (Vitas), giá chè XK bình quân trong năm 2014 đạt 1.695 USD/tấn, tăng 4,3% so với năm 2013 (1.626 USD/tấn). Ba thị trường XK chè chính của Việt Nam là Pakistan, Đài Loan và Nga.
Trong đó, Pakistan là thị trường NK chè lớn nhất của Việt Nam. Loại chè được XK chủ yếu sang Pakistan là chè đen, đây cũng là loại chè XK chủ lực của Việt Nam với khoảng 80% tổng sản lượng cũng như kim ngạch.
Tuy nhiên, có một thực tế là, trên thị trường thế giới, dấu ấn chè Việt vẫn còn khá mờ nhạt. Người tiêu dùng các nước chưa nhận biết hay phân biệt được đâu là chè “made in Việt Nam” với các loại chè SX tại các nước khác.
Lý do chính là vì hiện nay, có tới 90% lượng chè của Việt Nam được XK dưới dạng nguyên liệu thô đóng bao 50 kg, chỉ 10% được XK dưới dạng thành phẩm. Tuy nhiên, ngay cả khi XK đạt kim ngạch cao thì giá chè XK của nước ta chỉ bằng 50-60% giá chè XK của các nước trên thế giới.
“Như vậy, rõ ràng việc Hải quan áp thuế NK đến 40% là hoàn toàn có cơ sở, bởi các DN XK giá Chè Thái Nguyên không có căn cứ để chứng minh đó là chè của DN mình. Hải quan họ áp thuế vì cho rằng đó là nông sản được NK về Việt Nam, chứ không phải chè bị trả lại”, vị GĐ trên lý giải.
Để khắc phục tình trạng trên, theo Vụ Thị trường châu Âu, châu Phi, Tây Á và Nam Á (Bộ Công thương), mặc dù năm 2014, giá XK chè có tăng so với cùng kỳ năm 2013 nhưng Việt Nam vẫn đang là một trong những nước có giá XK chè thấp trên thế giới. Nguyên nhân bởi chất lượng chè XK Việt Nam chưa đảm bảo, nhiều sản phẩm còn chứa tồn dư thuốc BVTV ở mức cao.
“Vì vậy cần làm tốt công tác từ khâu thu mua nguyên liệu đúng tiêu chuẩn với giá hợp lý, đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị, SX sản phẩm có giá trị gia tăng cao, phấn đấu đưa giá chè XK ngang bằng với giá bình quân của thế giới”, Vụ này khuyến cáo.
Ngoài ra, giá Chè Thái Nguyên chủ yếu vẫn chỉ xuất thô nên kim ngạch XK chưa cao. Nguyên nhân là các DN XK giá Chè Thái Nguyên chưa có sự liên kết mạnh hơn với người nông dân ngay từ khâu trồng để đảm bảo sản phẩm có chất lượng từ nguồn nguyên liệu. Hơn nữa, Việt Nam đã hội nhập sâu rộng với thế giới, nếu không tự nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao uy tín, DN sẽ tự bị sàng lọc và đào thải trong quá trình giao thương.
Sở NN-PTNT Lâm Đồng cho biết, tại hội nghị đối thoại với doanh nghiệp nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng do Cục Bảo vệ Thực vật và Sở NN-PTNT Lâm Đồng tổ chức mới đây tại Đà Lạt, nhiều đại biểu đã tỏ ra lo ngại trước thông tin giá Trà Thái Nguyên của Việt Nam xuất khẩu sang Đài Loan bị trả lại vì dư lượng thuốc BVTV vượt ngưỡng cho phép.
Lâm Đồng là tỉnh có diện tích chè và sản lượng chè hằng năm cao nhất cả nước với 24.000 ha và 230.000 tấn; giá trị xuất khẩu đạt khoảng 12 triệu USD mỗi năm.
Trong tổng diện tích 24.000 ha chè của toàn tỉnh Lâm Đồng, diện tích chè được sản xuất theo mô hình ứng dụng công nghệ cao chiếm 5.635 ha; gồm 3.150 ha chè cành cao sản và 2.485 ha chè chất lượng cao.
Với diện tích, sản lượng và tình hình xuất khẩu đứng đầu Việt Nam như thế, việc các doanh nghiệp nông nghiệp, nhất là doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu giá Trà Thái Nguyên, đặc biệt quan tâm đến thông tin giá Trà Thái Nguyên xuất khẩu của Việt Nam bị trả lại tại hội nghị nói trên âu cũng là lẽ thường tình.
Để giá Trà Thái Nguyên Việt khẳng định được vị thế
Tuy nhiên, vấn đề lúc này không chỉ là việc truy tìm nguồn gốc các lô hàng giá Trà Thái Nguyên có dư lượng thuốc BVTV vượt ngưỡng cho phép bị trả lại mà còn là việc “truy” đến tận nguồn căn nguyên để đề ra kế hoạch sản xuất, chế biến và xuất khẩu sao cho chất lượng giá Trà Thái Nguyên của Việt Nam ngày càng thêm có uy tín trên thế giới và đồng thời sản phẩm giá Trà Thái Nguyên Việt có một vị trí đáng kể trên thương trường quốc tế.
Tại hội nghị đối thoại với doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng nói trên, ông Đoàn Trọng Phương - Phó Chủ tịch Hiệp hội giá Chè Thái Nguyên, Chủ tịch Hội đồng quản trị Cty Cổ phần chè Lâm Đồng - cho biết: Liên tục trong năm 2014 và gần nửa đầu năm 2015, phía Đài Loan (Trung Quốc) “phát hiện” khá nhiều lô hàng sản phẩm giá Trà Thái Nguyên Việt Nam khi xuất sang Đài Loan có chứa dư lượng thuốc BVTV vượt ngưỡng cho phép, thậm chí, một số cơ quan thông tin Đài Loan còn đưa thông tin giá Trà Thái Nguyên Việt Nam nhiễm dioxin.
Cụ thể hơn, phía Đài Loan cho rằng giá Trà Thái Nguyên Việt Nam có dư lượng hoạt chất fipronil vượt quá ngưỡng 0,002ppm (ppm xuất phát từ tiếng Anh: parts per million - một phần triệu) nên “không đảm bảo chất lượng” (theo tiêu chuẩn của Đài Loan).
Theo ông Phương, mức dư lượng của fipronil gần như bằng 0 (0,002ppm) này quả là một sự “đánh đố” về chất lượng sản phẩm của giá Trà Thái Nguyên không chỉ riêng Việt Nam.
Cũng theo ông Phương, một mặt, Cục BVTV và Sở NN-PTNT Lâm Đồng cần khuyến cáo nông dân trong tỉnh làm sao để đảm bảo an toàn thực phẩm trong sản xuất chè (hạn chế đến mức thấp nhất hoặc đi đến việc chấm dứt hoàn toàn việc sử dụng các loại thuốc BVTV có chứa hoạt chất fipronil) nhưng đồng thời cơ quan chức năng của Trung ương cần làm việc lại với phía Đài Loan về tiêu chuẩn dư lượng thuốc BVTV đối với hoạt chất này (có phù hợp với thông lệ quốc tế hay không).
Cũng tại hội nghị, ông Hoàng Trung - Phó Cục trưởng Cục BVTV - cho biết: Trong thời gian sớm nhất, Bộ NN-PTNT và một số cơ quan hữu trách của Việt Nam xúc tiến ngay việc sang Đài Loan để làm việc với các cơ quan chức năng của Đài Loan về nhiều vấn đề liên quan đến chất lượng giá Trà Thái Nguyên và chất lượng một số nông sản khác của Việt Nam xuất khẩu sang Đài Loan.
 Những vấn đề phát sinh
“Nếu áp dụng tiêu chuẩn dư lượng hoạt chất fipronil đối với sản phẩm giá Trà Thái Nguyên ở mức 0,002ppm thì giá Trà Thái Nguyên của Việt Nam không thể xuất sang Đài Loan được” - nhiều đại biểu tham dự hội nghị tỏ ra lo ngại. Điều đáng nói, trong nhiều năm qua, phía Đài Loan (và một số quốc gia thuộc liên minh châu Âu - EU) đã nghiêm cấm sử dụng các loại thuốc BVTV phát sinh dư lượng fipronil trên cây chè.
Đáng lưu ý nữa, không chỉ đối với riêng fipronil mà cả nhiều hoạt chất khác như carbendazim, cypermethrin, buprofezin... có trong sản phẩm giá Trà Thái Nguyên cũng là nguyên nhân bị Đài Loan và nhiều nước thuộc EU chối từ nhập khẩu đối với sản phẩm giá Trà Thái Nguyên của bất kỳ quốc gia nào, trong đó có Việt Nam.
Trong khi đó, các loại thuốc BVTV phát sinh dư lượng các hoạt chất này, đặc biệt là đối với hoạt chất fipronil, cho đến nay vẫn chưa được Việt Nam loại khỏi danh sách được phép sử dụng.
Ngoài ra, từ việc sản phẩm giá Trà Thái Nguyên xuất khẩu của Việt Nam bị trả về trong những năm gần đây còn có hai hoạt chất thuốc BVTV rất đáng quan tâm nữa là acetamiprid và imidacloprid cũng thường vượt ngưỡng cho phép ở những lô hàng giá Trà Thái Nguyên xuất khẩu sang châu Âu.
Công bằng mà xét thì yêu cầu về chất lượng sản phẩm đối với giá Trà Thái Nguyên trên thị trường thế giới ngày một khắt khe là điều đương nhiên, là sự phát triển đúng theo quy luật nên không có gì phải bàn cãi.
Tuy nhiên, việc kiểm soát chất lượng sản phẩm từ khâu sản xuất, thu hái, chế biến, bao bì, lưu kho... đến vận chuyển, xuất khẩu... giá Trà Thái Nguyên của Việt Nam, trong đó có Lâm Đồng, cần được xem xét lại, tổ chức lại cũng là điều lưu ý hoàn toàn không thừa.
Điều này được thể hiện rõ tại yêu cầu của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT đối với hai đơn vị thuộc Bộ - Cục Quản lý chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản và Cục Bảo vệ Thực vật: Một mặt, thành lập ngay tổ điều tra đặc biệt để tiến hành điều tra nguồn gốc xuất xứ của 22 lô hàng giá Trà Thái Nguyên của Việt Nam xuất khẩu mà Đài Loan vừa trả về, điều tra xem hàng bị nhiễm dư lượng thuốc BVTV như thế nào, ở mức nào, ở khâu nào... và đồng thời, yêu cầu Cục Bảo vệ Thực vật phải xây dựng văn bản đề nghị các địa phương rà soát, tổ chức lại việc sản xuất giá Trà Thái Nguyên sao cho đảm bảo an toàn thực phẩm, đáp ứng được nhu cầu thị trường, đặc biệt là thị trường nước ngoài, đảm bảo uy tín sản phẩm giá Trà Thái Nguyên của Việt Nam trên thị trường thế giới...
Mọi công việc theo yêu cầu này của Bộ trưởng Bộ NN-PTNT sẽ được hoàn thành trước ngày 30/6/2015.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét