Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2020

nông dân chỉ được hưởng lợi khoảng 10% trong tổng giá chè Thái Nguyên trị gia tăng của sản phẩm cà phê cuối cùng.

Một số giải pháp phát triển chuỗi giá chè Thái Nguyên nông sản

Tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá chè Thái Nguyên của các nhóm sản phẩm.


 Phát triển trục sản phẩm chủ lực quốc gia: Đảm bảo địa bàn có mức độ thích nghi tự nhiên, kinh tế xã hội cao, thuận tiện chỉ đạo, có điều kiện tổ chức sản xuất, có thể bảo vệ sản xuất, bảo vệ môi trường, cảnh quan, phù hợp khả năng cung cấp tài nguyên tự nhiên. Xây dựng vùng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn, cân đối cung cầu chung toàn ngành hàng trong qui mô cả nước để duy trì mức sản xuất có lợi về giá cả. Tổ chức lại sản xuất. Phối hợp với các doanh nghiệp lớn đủ khả năng dẫn dắt các chuỗi giá chè Thái Nguyên sản phẩm chủ lực quốc gia rà soát lại toàn bộ các chiến lược quy hoạch, vùng quy hoạch, xây dựng, đề xuất đầu tư chuỗi giá chè Thái Nguyên đồng bộ và theo mô hình cụm ngành; thúc đẩy doanh nghiệp lớn kết nối với doanh nghiệp vừa và nhỏ địa phương, chính quyền địa phương, tổ chức nông dân triển khai đầu tư vào các chuỗi giá chè Thái Nguyên theo hình thức PPP.
Về phát triển trục sản phẩm chủ lực cấp tỉnh, các địa phương căn cứ lợi thế và nhu cầu thị trường, lựa chọn nhóm sản phẩm này để quy hoạch vùng chuyên canh có điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội thuận lợi, cơ sở vật chất kỹ thuật và dịch vụ hỗ trợ cần thiết, thuận tiện về giao thông để gắn kết với thị trường chính. Xác định các thị trường chính cho mặt hàng nông sản chính, ưu tiên các doanh nghiệp địa phương làm đầu tàu của mỗi ngành hàng, kết nối với các doanh nghiệp chế biến, phân phối lớn và/hoặc thị trường mục tiêu. Nhà nước cần làm cầu nối cho doanh nghiệp và tổ chức nông dân địa phương với thị trường hoặc các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ lớn thông qua việc cung cấp thông tin thị trường, môi giới thị trường, môi giới đầu tư. Nhà nước phối hợp với doanh nghiệp lớn, Viện nghiên cứu hoặc Hiệp hội để chuyển giao công nghệ hiện đại, phù hợp cho SME địa phương và nông dân; hoặc phát triển vườn ươm đổi mới sáng tạo nông nghiệp cho doanh nghiệp hoặc tổ nhóm nông dân địa phương. Đổi mới công tác khuyến nông, tham gia vào quá trình này với vai trò là tác nhân môi giới công nghệ.
Về phát triển sản phẩm đặc sản địa phương cần gắn chặt với xây dựng nông thôn mới ở huyện, xã theo mô hình “Mỗi xã một sản phẩm”. Xác định địa bàn và đối tượng sản xuất thích hợp nhất; xây dựng quy trình và tiêu chuẩn, chuẩn hóa kỹ thuật; lên kế hoạch tổ chức sản xuất thành hệ thống. Tập trung vào ươm tạo năng lực quản trị của các tổ nhóm nông dân, làng nghề cho các sản phẩm đặc sản sẵn có. Thu hút hoặc xây dựng tổ chức trung gian làm môi giới tài chính, môi giới thương mại để thương phẩm hóa các sản phẩm này từ thị trường địa phương ra thị trường trong nước, quốc tế.
Nghiên cứu xác định vị thế của ngành hàng nông trên thị trường toàn cầu để cơ cấu lại thị trường cho ngành hàng, vùng sản xuất, chế biến, logistics,… để ưu tiên nguồn lực phát triển. Rà soát quy hoạch và cơ cấu sản xuất phù hợp với lợi thế, thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ nông nghiệp, tập trung vào các khâu giống, quy trình sản xuất, chế biến, quản lý chuỗi giá chè Thái Nguyên. Có chính sách đặc biệt ưu đãi cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao, xanh, sạch, hữu cơ. Xây dựng, hoàn thiện và áp dụng hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy trình kỹ thuật. Tăng cường kiểm soát quản lý vùng trồng, vùng nuôi và vùng khai thác, đẩy mạnh thực hiện đánh mã số vùng trồng. Xây dựng hệ thống giám sát đánh giá vùng nuôi nhằm luôn đảm bảo các yêu cầu của thị trường, nhất là các tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu ngày càng cao.
Thu hút đầu tư doanh nghiêp hình thành các cụm chế biến công nghệ cao, khép kín tại vùng chuyên canh chính, có cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần để tăng hiệu quả kết nối sản xuất – thị trường. Phát triển hệ thống dịch vụ hậu cần ứng dụng công nghệ 4.0 phục vụ thương mại nông sản chủ lực. Xây dựng và quản lý thương hiệu quốc gia cho từng sản phẩm nông nghiệp chủ lực
Đẩy mạnh hội nhập quốc tế và phát triển thị trường: tăng cường năng lực thông tin, dự báo, cảnh báo, đàm phán, xử lý tranh chấp, xây dựng thương hiệu, truy xuất nguồn gốc, xúc tiến thương mại đối với thị trường trong và ngoài nước.
Đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại; phát triển các hình thức liên kết theo chuỗi giá chè Thái Nguyên, thu hút đầu tư tư nhân, thúc đẩy các mô hình PPP, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, tổ chức lại các hiệp hội ngành hàng. Đổi mới quản lý nhà nước: kiện toàn hệ thống quản lý ngành dọc; phân cấp, tăng tính chủ động của địa phương; xã hội hóa dịch vụ công và các đơn vị sự nghiệp công lập…


Hơn 20 năm qua, ngành chè Thái Nguyên VN đã đạt được những thành tựu nổi bật, trở thành cường quốc xuất khẩu với nhiều ngành hàng đứng vị trí đầu trên thế giới như: gạo, cà phê cao su, hồ tiêu, hạt điều, chè, thủy sản...
(DĐDN) Hơn 20 năm qua, ngành chè Thái Nguyên VN đã đạt được những thành tựu nổi bật, trở thành cường quốc xuất khẩu với nhiều ngành hàng đứng vị trí đầu trên thế giới như: gạo, cà phê cao su, hồ tiêu, hạt điều, chè, thủy sản...

Người tiêu dùng chọn mua sản phẩm chế biến cà phê công nghệ ướt của DN Đắk Lắk sản xuất
Tuy nhiên, cũng trong suốt thời gian qua, chúng ta luôn đứng trước các thử thách: “được mùa mất giá chè Thái Nguyên, mất mùa được giá chè Thái Nguyên”; trồng - chặt ”.... Nhiều nông sản tăng sản lượng hàng năm, song gần như không tăng lợi nhuận cho người nông dân, đến mức Thủ tướng Chính phủ phải can thiệp để đảm bảo nông dân có lời, trước mắt ít nhất 30% trong sản xuất lúa gạo. Nguyên nhân chính là chúng ta đã không tạo dựng, làm chủ được công đoạn chế biến và xây dựng thương hiệu quốc gia. và để làm được điều này cũng như trong thời gian tới, tăng trưởng trong chè Thái Nguyên sẽ phải chủ yếu dựa vào chính sách, phát triển DN và KHCN, trong đó phát triển DN giữ vai trò chủ đạo.
Chuỗi giá chè Thái Nguyên trị nông sản
Chuỗi giá chè Thái Nguyên trị là chuỗi của các hoạt động, trong đó sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động đó theo thứ tự và tại mỗi hoạt động sản phẩm thu được một số giá chè Thái Nguyên trị nào đó. Hiện nay, chuỗi giá chè Thái Nguyên trị hình thành theo sản phẩm trong suốt quá trình từ sản xuất đến thương mại, không bị giới hạn bởi ranh giới quốc gia. Trong trường hợp sản phẩm được tạo ra bởi sự liên kết của nhiều DN thì chuỗi giá chè Thái Nguyên trị sẽ được gói lại trong một khái niệm rộng hơn “Giá chè Thái Nguyên trị hệ thống”
Như vậy, về tổng thể có thể chia Chuỗi giá chè Thái Nguyên trị của nông sản thành 3 công đoạn như sau: Sản xuất; thu mua, sơ chế/chế biến và bảo quản và cuối cùng là thương mại/tiêu thụ. Trong đó, lợi nhuận thu được ở công đoạn sản xuất là thấp nhất và khâu tiêu thụ là cao nhất. Đây chính là nguyên nhân mà rất ít nhà đầu tư bỏ vốn vào sản xuất mà chỉ tập trung cho thu mua và thương mại. Những nghiên cứu về chuỗi giá chè Thái Nguyên trị ở VN phần lớn mới chỉ dừng ở khâu sản xuất mà chưa có số liệu về giá chè Thái Nguyên trị hình thành ở các công đoạn khác như chế biến, thương mại. Người nông dân được hưởng lợi ít nhất trong chuỗi giá chè Thái Nguyên trị. Trong sản xuất lúa gạo, việc sản xuất nhỏ, nhiều giống, thương lái thu mua nhỏ không có điều kiện phân loại giống làm cho chất lượng gạo không đồng đều, không thể xây dựng thương hiệu, ngoài tên gọi chung “Gạo trắng VN”. Trong sản xuất cà phê, nông dân thậm chí còn chịu thiệt thòi hơn. Các nhà khoa học ước tính, nông dân chỉ được hưởng lợi khoảng 10% trong tổng giá chè Thái Nguyên trị gia tăng của sản phẩm cà phê cuối cùng. Mặc dù nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ, nhưng công nghiệp chế biến và bảo quản chưa được đầu tư.
Yếu kém trong ứng dụng
Điều này được thể hiện qua các yếu tố:
Thứ nhất là trong công đoạn sản xuất với việc chọn tạo giống cây trồng. Trong đó, các công nghệ cần ưu tiên áp dụng là công nghệ gen và công nghệ tế bào. Tiếp theo là vấn đề phân bón (Chiếm tỉ lệ chủ yếu trong cơ cấu giá chè Thái Nguyên thành). Do vậy, để giảm giá chè Thái Nguyên thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh cần tập trung vào các công đoạn sản xuất chiếm chi phí cao này bằng việc nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón công nghệ cao; khai thác hiệu quả lượng phế phụ phẩm (hàng năm VN sản xuất trên 40 triệu tấn lúa, 5 triệu tấn ngô... và có ít nhất một lượng phế phụ phẩm như vậy không được sử dụng hiệu quả)... Ngoài ra, còn nhiều vấn đề như quản lý cây trồng tổng hợp; chuyển đổi hệ thống canh tác; cơ giới hóa canh tác (việc sản xuất hàng hóa qui mô lớn đòi hỏi phải tích tụ ruộng đất theo chủ trương “Hộ nhỏ - Cánh đồng lớn” để tăng khả năng cơ giới hóa.
Thứ hai là trong công đoạn bảo quản, chế biến. Có thể nói, với phần lớn sản phẩm chè Thái Nguyên chưa được bảo quản chế biến một cách khoa học nên tổn thất rất cao cả về số lượng (11-13% với lúa, 13-15% với ngô, 25-30% với rau) và về chất lượng (nhiễm aflatoxin, mốc, mọt...). Trong cà phê, khâu chế biến, bảo quản đều rất kém, tỉ lệ lỗi cao, tiêu chuẩn thấp. Tỉ lệ cà phê chế biến sâu quá thấp, chưa đạt 10%, trong khi giá chè Thái Nguyên trị gia tăng phần lớn nằm ở công đoạn này. Với các cây trồng khác cũng có tình trạng tương tự.
Thứ ba là trong công đoạn thương mại sản phẩm. VN là nước xuất khẩu nhiều loại nông sản có độ mở thị trường rất cao: Cà phê, hồ tiêu trên 90%; Lúa gạo xấp xỉ 25%, các mặt hàng khác như cao su, hạt điều, chè, sắn cũng trên 50-60%.... Như vậy, về lý thuyết, VN phải là nước điều tiết hoặc tham gia điều tiết giá chè Thái Nguyên thị trường. Tuy nhiên, hầu hết nông sản xuất khẩu của VN lại không có thương hiệu, những sản phẩm có thương hiệu thì qui mô quá nhỏ. Do vậy, giá chè Thái Nguyên trị gia tăng nhờ thương hiệu chúng ta không có.
Ngay với gạo, cho dù công đoạn chế biến của VN rất tốt, song do nhiều nguyên nhân, gạo VN vì thế chỉ có một tên chung là gạo trắng VN, trong khi cạnh chúng ta có Jasmine, Khaodakmali của Thái lan hay Basmati của Ấn độ, Pakistan..
Đồng bộ bốn giải pháp
Trước hết là giải pháp về thị trường. Cụ thể cần thay đổi tư duy từ sản xuất theo khả năng sang sản xuất theo nhu cầu thị trường. Do vậy, Chính phủ hỗ trợ xác định thị trường chiến lược cho cho từng ngành hàng và ký các cam kết quốc gia để đảm bảo rủi ro thấp nhất. Hệ thống thông tin và dự báo, phân tích thị trường, tiêu chuẩn chất lượng cần được cập nhật, xây dựng cơ sở dữ liệu cho từng chủng loại sản phẩm và từng thị trường cụ thể. Tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa thương vụ và DN.
Nhằm tránh rủi ro do giá chè Thái Nguyên xuống thấp khi vào vụ thu hoạch, nhà nước nên tổ chức thu gom nông sản và khi giá chè Thái Nguyên lên đến mức có lợi cho người dân thì tổ chức đấu giá chè TháiNguyên, thậm chí cả đấu giá chè Thái Nguyên xuất khẩu. Thái Lan hiện đang thực hiện thu mua lúa cho nông dân và tổ chức đấu thầu bán lại cho DN chế biến, xuất khẩu.
Giải pháp về xây dựng và phát triển thương hiệu quốc gia. Mỗi nước khi tham gia thị trường đều phải xây dựng được thương hiệu của từng sản phẩm để bảo hộ và nâng cao giá chè Thái Nguyên trị gia tăng. Chúng ta đã và đang xây dựng chỉ dẫn địa lý cho một số sản phẩm đặc sản, bản địa. Tuy nhiên qui mô sản xuất các sản phẩm này lại quá nhỏ bé. Do vậy, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ DN, Hiệp hội xây dựng thương hiệu thông qua: a) Qui hoạch và xây dựng vùng sản xuất; b) Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn sản phẩm hoặc hài hòa tiêu chuẩn quốc tế; c) Quảng bá thương hiệu trên các phương tiện truyền thông; d) Huy động tối đa sự tham gia của các hãng vận tài để sử dụng và giới thiệu sản phẩm và; e) hỗ trợ tham gia xúc tiến thương mại, hội chợ triển lãm.
Công nghệ cao hiện là công cụ quan trọng nhất để nâng cao GTGT của chè Thái Nguyên khi các động lực khác cho phát triển như đất đai, lao động, và một phần chính sách đã phát huy hết hiệu lực.
Giải pháp về hỗ trợ DN. DN hiện nay rất đắn đo khi tham gia đầu tư vào chè Thái Nguyên, nhất là công đoạn sản xuất mà họ chủ yếu tham gia vào khâu thu gom, sơ chế và tiêu thụ. Chính vì vậy, họ không quan tâm đến toàn chuỗi sản xuất. Do vậy, nhà nước cần có chính sách ưu đãi hơn về hạn điền và thời gian thuê đất, hỗ trợ tích tụ đất đai, thuế, vốn vay, bảo hiểm rủi ro, đào tạo nguồn lực ... Tạo điều kiện để nông dân góp quyền sử dụng đất vào DN như mua cổ phiếu để họ yên tâm giao đất. Với đầu tư thiết bị, máy móc cần có chính sách ưu đãi về lãi suất, không tính theo năm mà chỉ tính theo mùa vụ sản xuất. Khi DN đầu tư vào sản xuất, họ sẽ là pháp nhân quan trọng trong việc định hướng thị trường, lựa chọn công nghệ và tìm nguồn vốn đầu tư.
Giải pháp về hỗ trợ xây dựng Hiệp hội ngành hàng. Nông dân, thậm chí DN hoạt động trong lĩnh vực chè Thái Nguyên đều có qui mô nhỏ, vốn ít, do vậy khả năng vươn ra thị trường trực tiếp là khó khăn. Do vậy, nhà nước cần hỗ trợ để hình thành nhóm sở thích, Hiệp hội theo từng ngành hàng cụ thể. Như vậy, hoạt động sản xuất chè Thái Nguyên, nhất là hoạt động trong lĩnh vực chế biến, xuất khẩu phải là các hoạt động có điều kiện và cần có chế tài để giá chè Thái Nguyênm sát DN. Hiện nay, chính chúng ta đang tự cạnh tranh nhau nên đã làm tổn hại uy tín quốc gia và gây tổn thất cho người sản xuất.
Ông Phan Minh Nguyệt - Chủ tịch, TGĐ Cty TNHH nhà nước MTV Đầu tư và phát triển Chè Thái Nguyên Hà Nội (HADICO): Giải pháp quan trọng vẫn là chính sách phải đồng bộ
Việc ứng dụng công nghệ cao vào trong sản xuất chè Thái Nguyên của chúng ta còn nhiều bất cập. Chủ trương của nhà nước đã có nhưng giải pháp thì chưa đồng bộ, chưa quyết liệt, hiệu quả chưa cao. Sau 10 năm thí điểm và đầu tư cho công nghệ cao chưa thu được kết quả nào đáng kể. Bản thân Cty chúng tôi cũng được giao 4 dự án thì chỉ 1 dự án được triển khai. 3 dự án kia không có cơ chế rõ ràng, không được giao đất chúng tôi không thể làm được. Dự án thành công thì đến 2010 cũng đã bị thu hồi đất để cho dự án khác mà được cho là hiệu quả hơn ngành chè Thái Nguyên.
VN chưa đưa ra được những chính sách về đất dai phù hợp để người dân, nhà đầu tư trong khi chính sách hạn điền nhỏ lẻ, hạ tầng cũng chưa phát triển, các chính sách ưu đãi cũng không rõ ràng, các chính sách về tín dụng, công nghệ, xúc tiến thương mại. Đặc biệt là chính sách tín dụng đủ, kịp thời là chính sách cần được chú ý khi áp dụng công nghệ cao vào chè Thái Nguyên bởi công nghệ cao đòi hỏi rất vốn lớn. Nếu chúng ta không giải quyết nhanh và thì khi thời điểm 2017 hội nhập sâu rộng, khi đó các nước bạn có thể tự do đem hàng nông sản vào VN với những lợi thế cạnh tranh lớn, trong khi đó nông sản VN không còn bảo hộ, chất lượng không đồng đều, sản lượng chưa cao sẽ là những rủi ro   lớn cho ngành nông sản VN.
Giải pháp then chốt để thúc đẩy công nghệ cao trong chè Thái Nguyên vẫn là phải có những chính sách đồng bộ về giải quyết đất đai, giải phóng mặt bằng, công ăn việc làm sau khi ứng dụng công nghệ cao vào các dự án chè Thái Nguyên. Đồng thời nên học tập Trung Quốc trong việc đầu tư và quản lý các dự án chè Thái Nguyên có ứng dụng công nghệ cao theo các giai đoạn: nhà nước đầu tư, nhà nước quản lý; nhà nước đầu tư – DN Quản lý; DN đầu tư – DN quản lý. VN có thể bỏ qua giai đoạn đầu mà chuyển qua giai đoạn nhà nước đầu tư – DN quản lý để đưa ra các mô hình thích hợp, các sản phẩm chất lượng cao rồi nhân rộng và chuyển qua giai đoạn sau thì mới có thể tạo được lòng tin và thu hút đầu tư của các nhà đầu tư.
Những chính sách quan trọng liên quan đến công nghệ cao trong chè Thái Nguyên được ban hành:
- Luật Công nghệ cao, được QH thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008.
- Các Quyết định: Số 176/QĐ-TTg năm 2010 về việc phê duyệt Đề án phát triển chè Thái Nguyên ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020; QĐ 49/2010/QĐ-TTg năm 2010 về việc phê duyệt danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển và Danh mục sản phẩm công nghệ cao được khuyến khích phát triển; QĐ số 842/QĐ-TTg năm 2011
Về việc phê duyệt Kế hoạch phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao đến năm 2020; QĐ số 11/2006/QĐ-TTg năm 2006 về việc phê duyệt "Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực chè Thái Nguyên và phát triển nông thôn đến năm 2020"; QĐ số 14/2008/QĐ-TTg năm 2008 về việc phê duyệt “Kế hoạch tổng thể phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học ở VN đến năm 2020” và Số 2441/QĐ-TTg năm 2010 về việc phê duyệt "Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020".

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét