Thứ Tư, 21 tháng 10, 2020

Chè được lựa chọn là chè trồng theo tiêu chuẩn VietGAP

Công ty Trà Thái Nguyên sản xuất theo tiêu chuẩn Sạch - An Toàn - VietGap

Khi tham gia mô hình, có ít nhiều nhận thức về thực hành sản xuất nông nghiệp tốt nhưng để tự thân người nông dân chuyển thành hành động là vô cùng nan giải. Sản xuất tại Công ty chè Thái Nguyên hữu cơ cũng không ngoại lệ. Trong điều kiện đó, doanh nghiệp sẽ là nhân tố quan trọng chủ chốt tạo ra mô hình bền vững, có sức lan tỏa mạnh mẽ.



Nhẫn nại

Công ty Chè Thái Nguyên tại Thái Nguyên cho rằng, đòi hỏi của người tiêu dùng về những sản phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đã khiến cho những thương hiệu tồn tại nương tựa vào hào quang của thương hiệu quá khứ dần bị mai một, mất chỗ đứng.

 


 

Chính vì vậy mà khi quyết định đầu tư vào Thái Nguyên để sản xuất chè hữu cơ, Công ty Trà Thái Nguyên không lựa chọn những vùng chè nổi tiếng. Địa điểm sản xuất của Công ty Chè Thái Nguyên được chọn là 5ha chè liền khoảnh thuộc xóm Văn Hữu (xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ).

Ông Tuấn kể, ông sinh ra và lớn lên ở Văn Chấn (Yên Bái), nơi mà cây chè đã nuôi sống biết bao thế hệ của gia đình ông. Vậy nhưng, ngay từ khi còn nhỏ, ông đã chứng kiến cảnh những người làm chè quê mình vãi sức, đổ độc lên những nương chè như thế nào.

Người người, nhà nhà dùng phân bón hóa học chút vô tôi vạ lên đồi chè. Cứ mưa lại đi bón đạm. Thấy sâu là phun. Phun một thứ thuốc không thấy hết sâu thì phun thuốc khác. Không được thì cộng hai ba loại lại phun tổng hợp. Phun buổi sáng, buổi chiều phun tiếp. Bao giờ hết sâu thì thôi. Nhiều người vác bình thuốc sâu về đến nhà thì nằm vật ra vì nhiễm độc.

Mang tư duy thay đổi và phương pháp sản xuất chè hữu cơ đến Thái Nguyên - thủ phủ trà Việt để đầu tư, ông Tuấn đón nhận nhiều hoài nghi, phản ứng. Rằng làm chè mà không thuốc sâu, không phân bón hóa học, thuốc bón lá, kích phọt đủ loại thì chỉ có lấy sâu chè, lấy rễ chè pha nước mà uống.

Không nao núng, năm 2012, ông Tuấn chọn mua và thuê lại diện tích 5ha chè của người dân xóm Văn Hữu. Theo ông, làm chè hữu cơ không phải nói làm là làm ngay được mà phải kiên trì theo đuổi. Đối với cây chè, phải mất ít nhất 3 năm không bón phân hóa học, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật thì cây và đất mới hết tồn dư chất hóa học.

Với tổng nguồn vốn đầu tư trên 30 tỷ đồng, Công ty Chè Thái Nguyên tại Thái Nguyên đã tạo ra phương thức sản xuất chè công nghệ cao. Áp dụng đồng bộ tiến bộ khoa học kỹ thuật trong việc canh tác cũng như chế biến sản phẩm chè. Mỗi lô chè đều được quy hoạch và có biển ghi thứ tự riêng. Ở các lô đều có giàn van xoay tưới tự động cùng hệ thống cảm biến điều khiển tự động từ xa.

Đúng như tính toán, vừa làm, vừa tuyên truyền, vận động hướng dẫn bà con cùng làm, sau 3 năm, đến đầu năm 2016, sản phẩm chè của Công ty Chè Thái Nguyên tại Thái Nguyên đã được công nhận đạt tiêu chuẩn sản phẩm chè hữu cơ.

Từ nhà xưởng, kho bảo quản, trưng bày sản phẩm đều được lắp đặt các trang thiết bị phục vụ việc theo dõi, chăm sóc cho cây chè, sản phẩm chè. Cty sử dụng công nghệ điện toán đám mây vào hệ thống tưới tiêu tự động, sử dụng chip điện tử để theo dõi hướng gió, độ ẩm, dinh dưỡng và dự báo thời tiết. Ngoài việc sử dụng phân đã được ủ kỹ, một số loại loại chế phẩm sinh học an toàn để kích thích khả năng hấp thụ của cây được sử dụng như IMZ, BIO FIM…



Thành công

Ngay lập tức, mỗi kg chè xanh hữu cơ Công ty Chè Thái Nguyên đã được bán với giá từ 500 ngàn đồng đến 1,5 triệu đồng/kg. Vấn đề không phải là những sản phẩm chè nói trên đều do phía Cty xuất khẩu mà chính nhiều bạn hàng, người sử dụng trong nước cũng tìm mua.

Ông Tuấn cho rằng, chiến lược đầu tư của Cty đã đúng. Vì, sản xuất hữu cơ đã tạo ra sản phẩm mà mọi người trong xã hội đều mong muốn tìm mua sử dụng. Rõ ràng, lúc này thương hiệu đã được khẳng định lại trên cơ sở xác lập sự an toàn cho sản phẩm chứ không phải là sản phẩm từ vùng nào, miền nào nữa.

Từ chỗ đạt tiêu chuẩn sản phẩm chè hữu cơ, các điều kiện về tự nhiên, nguồn đất, nguồn nước, sản phẩm sơ chế của công ty tiếp tục phải trải qua hàng loạt những kiểm nghiệm nghiêm ngặt và phân tích một cách khoa học theo các tiêu chuẩn quốc tế. Với việc đầu tư nghiêm túc, bài bản, Công ty Chè Thái Nguyên là đơn vị đầu tiên trong Hiệp hội Chè Việt Nam được tổ chức chứng nhận quốc tế Biocer International trao chứng nhận sản phẩm trà đạt tiêu chuẩn hữu cơ nông nghiệp IFOAM.



Nối tiếp thành công, Công ty Chè Thái Nguyên tại Thái Nguyên tiếp tục xây dựng bộ sản phẩm sản phẩm được ưa chuộng như: Trà túi lọc, bột trà xanh Matcha, trà sữa; áp dụng sản phẩm chè sạch để làm nguyên liệu cho hóa mỹ phẩm, hàng tiêu dùng... Sản phẩm của Cty ngoài tiêu thụ trong nước còn hướng tới xuất khẩu sang các thị trường như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Đức…

Việc đạt được chứng nhận hữu cơ quốc tế cho sản phẩm chè chính là giấy thông hành cho chè Việt xuất ngoại với giá trị và đẳng cấp thế giới. Về chiến lược trong thời gian tiếp theo, ông Nguyễn Kim Tuấn cho biết, chủ động về phương thức sản xuất, Công ty đã nhắm đến một số thị trường tiềm năng, vì vậy, trong thời gian tới, Cty sẽ phải tiếp tục mở rộng sản xuất để có được sản lượng hàng hóa quy mô lớn hơn, đảm bảo nhu cầu tiêu thụ.

Ông Dương Sơn Hà, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Thái Nguyên: Chi nhánh Cty NTEA Việt Nam tại Thái Nguyên không chỉ là doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương mà còn làm thay đổi nhận thức về sản xuất chè Thái Nguyên, là mô hình điểm, kiểu mẫu, có sức lan tỏa, cần nhân diện để sản xuất nông nghiệp hữu cơ nói chung, sản xuất chè hữu cơ nói riêng của Thái Nguyên phát triển đúng với lộ trình tái cơ cấu nông nghiệp trong thời gian tới.

Chật vật xây dựng thương hiệu

Chúng tôi đến gặp bà Nguyễn Thị Hải vào những ngày cuối tháng 11/2017, sau khi Hội nghị cấp cao APEC Đà Nẵng thành công tốt đẹp. Và sản phẩm chè La Bằng đã làm tròn trọng trách là một trong những món quà biếu cao cấp tại sự kiện này.

Chia sẻ với chúng tôi, bà Nguyễn Thị Hải cho biết, sinh ra và lớn lên ở vùng chè La Bằng, cây chè đã gắn bó với bà từ thời thơ ấu. Bà theo mẹ làm chè, bán chè từ lúc học vỡ lòng. Hương chè, vị chè đi cùng bà vào từng bữa ăn, giấc ngủ. Và tình yêu với cây chè cứ thế lớn dần theo năm tháng. Thế nhưng, thời ấy, người làm chè quê bà vô cùng vất vả, thức khuya dậy sớm, một nắng hai sương mà giá lại rất rẻ bởi hầu hết khách hàng đều không biết chè La Bằng ở đâu. “Tôi đi bán chè ở chợ Rồng (Nam Định). Chè bày ra, ai uống thử cũng đều thích nhưng khi tôi nói là chè La Bằng thì không ai biết ở Thái Nguyên có chè La Bằng. Nhiều người còn tưởng La Bằng ở tỉnh Cao Bằng...” – Bà Hải nhớ lại.

 



Bà Đặng Thị Hồng Vân – Chủ nhiệm HTX Trà Xanh Thái Nguyên bên những đồi chè bà đã gắn bó từ thời thơ bé

 

 

Sau đó, năm 2001-2002, gia đình bà tham gia Liên hiệp các HTX chè Tân Cương, Thái Nguyên. Lúc đó, bao bì in trên sản phẩm là sản phẩm chè của Liên hiệp HTX, phía dưới mới đề sản xuất tại La Bằng. Lúc bấy giờ, sản phẩm bán đắt hàng và được khách hàng đánh giá rất cao. Đến khi sản phẩm chỉ ghi HTX chè La Bằng thì lại không được khách hàng đón nhận vì không biết Thái Nguyên có chè La Bằng.

Sau khi tham dự các lớp tập huấn, tìm hiểu qua nhiều giảng viên có kinh nghiệm, bà Hải nhận ra, nguyên nhân của tình trạng trên là do sản phẩm quê bà chưa xây dựng được thương hiệu. Từ đó, bà nung nấu quyết tâm tạo dựng thương hiệu cho chè La Bằng, để cái tên La Bằng đi vào lòng người tiêu dùng một cách tự nhiên và bền vững.

Tháng 12/2006, được sự ủng hộ của chính quyền xã, Hợp tác xã chè La Bằng do bà Hải làm chủ nhiệm được thành lập với 9 thành viên ban đầu. Mục tiêu trước mắt là xây dựng cho được thương hiệu chè La Bằng và tìm đầu ra ổn định cho sản phẩm.

Sang năm 2007, bà Hải mạnh dạn nộp đơn về Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) đề nghị được cấp chứng nhận nhãn hiệu chè La Bằng. Tuy nhiên, bà được giải thích rằng HTX chỉ là một nhóm người, không thể lấy tên địa danh của cả xã. Sau khi có người tư vấn đăng ký nhãn hiệu theo cách viết bỏ dấu của tiếng Anh, bà Hải đã đăng ký nhãn hiệu chè La Bang và được cấp chứng nhận thương hiệu vào tháng 10/2008.

Sau đó là hành trình quảng bá, giới thiệu miễn phí, tặng uống thử tại các hội chợ từ Bắc vào Nam. Nhiều năm trời ròng rã không biết mệt mỏi, có những lúc tưởng như muốn bỏ cuộc bởi lượng chè bán ra không được như mong đợi, thế nhưng suy đi tính lại bà Hải nhận thấy, nếu rút lui, quay lại làm theo cách cũ thì rất vất vả. Vậy là bà cùng mọi người trong HTX lại cùng nhau xốc lại tinh thần, quyết tâm không chạy theo số lượng, làm “chè sạch từ tâm”, tận dụng mọi cơ hội để đưa chè La Bằng đến với người tiêu dùng. Trời không phụ lòng người, dần dần, thương hiệu chè La Bằng bắt đầu có chỗ đứng trên thị trường, doanh thu của HTX năm sau cao hơn năm trước.

Và mối duyên với APEC 2017

Bà Hải vẫn không thể quên được cảm giác vỡ òa, sung sướng vô bờ bến khi mọi người trong HTX chè La Bằng hay tin sản phẩm “Đinh tâm trà” của họ được lựa chọn là một trong những món quà biếu quý giá tại Hội nghị cấp cao APEC 2017. Họ ôm chầm lấy nhau reo hò bởi sau 11 năm ròng nỗ lực không mệt mỏi, công sức dường như đã được đền đáp.

ch_tn_cng_thi_nguyn_21
Sản phẩm “Đinh tâm trà” được đựng trong những chiếc hộp tre gây ấn tượng mạnh với các vị khách tham dự Tuần lễ Cấp cao APEC 2017

Và cũng không phải dễ dàng để sản phẩm chè La Bằng vượt qua rất nhiều thương hiệu nổi danh khác, ghi tên mình vào danh sách quà tặng cấp cao. Bà Hải cho biết, để làm ra được những gói “Đinh tâm trà” thơm ngon là cả một quá trình vô cùng tỉ mỉ và kỳ công. Chè được lựa chọn là chè trồng theo tiêu chuẩn VietGAP, đảm bảo sạch và an toàn tuyệt đối. Khi hái chè chỉ hái duy nhất một đinh để chọn được búp chè tinh túy nhất và người hái cũng phải là những người có kỹ thuật cao, hái nhẹ nhàng như đang nâng niu từng búp chè vậy. Thời điểm hái chè là từ 7 đến 9 giờ sáng, vào những ngày thời tiết không mưa cũng không nắng gắt. Sau khi hái, những búp chè phải được bảo quản thật cẩn thận. Người chế biến chè cũng phải là những nghệ nhân có kinh nghiệm lâu năm, có thái độ cầu thị sâu sắc. Một yếu tố vô cùng quan trọng tạo nên hương vị đặc trưng của “Đinh tâm trà” được bà Hải tiết lộ đó là bí quyết để đấu trộn sản phẩm giữa các giống chè ngon sao cho “đinh tâm trà” có vị đậm đà của chè trung du, có vị thơm mát của chè Lai 1 và có cái hương hoa của chè Long Vân. Người làm chè La Bằng gọi đây là “sự đoàn kết” của các giống chè.

Sau khi tìm hiểu bà Hải được biết, sở thích của đại đa số các vị khách quốc tế khi uống trà đó là uống nhạt, thanh tao. Và hương vị của “Đinh tâm trà” rất phù hợp với thị hiếu đó. “Đinh tâm trà” khi pha ra có màu nước xanh trong; khi uống hương vị nhẹ nhàng, mùi hương thơm mát, dịu êm…

Với mong muốn sản phẩm ngon phải được đựng trong bao bì đẹp, có vậy mới tạo được ấn tượng hoàn hảo, bà Hải tiếp tục tìm tòi để làm cho “Đinh tâm trà” những chiếc hộp đựng thật là ấn tượng. Suy nghĩ mãi, bà nhận ra, cây tre từ bao đời nay đã gắn bó với người Việt. Vì vậy bà quyết định chọn tre là chất liệu chính làm bao bì sản phẩm. Sau khi đặt hàng làm mẫu, ai cũng hài lòng vì sản phẩm hộp tre được làm thủ công, nhìn thì rất mộc mạc, đơn giản nhưng cũng không kém phần tinh tế, sang trọng.

Giữa cái không khí se lạnh của những ngày cuối đông đầu xuân, được trò chuyện với bà Nguyễn Thị Hải và nhâm nhi những ngụm “Đinh tâm trà” thơm ngon, quả thật là một cảm giác vô cùng thanh tao, thi vị. Không cần phải là những người quá sành trà cũng có thể cảm nhận được hương vị rất riêng của “Đinh tâm trà”, nó chát nhẹ, ngọt hậu, đọng lại nơi cuống họng, vương vấn mãi không thôi. Mong cho sản phẩm “Đinh tâm trà” nói riêng và những sản phẩm chè ngon khác của Thái Nguyên nói chung sẽ biết tận dụng những cơ hội vàng như sự kiện APEC 2017 để nâng tầm thương hiệu, vươn ra thị trường thế giới.

Những năm qua, các hộ dân đã tích cực áp dụng kỹ thuật vào sản xuất tại Công ty trà Thái Nguyên, đầu tư máy móc trang thiết bị trong chế biến chè. Nhờ đó, đời sống của người dân làm chè đã được cải thiện, thu nhập hiện đạt trên 30 triệu đồng/người/năm (tăng hơn 2 triệu đồng/người/năm so với năm 2017). Kể từ năm 2017, xóm không có hộ nghèo, 100% các hộ dân trong xóm đều có thu nhập ở mức trung bình, khá trở lên.

Được biết, tổng diện tích chè của Làng nghề là 32ha, trong đó, diện tích chè kinh doanh là 28ha. Bên cạnh các giống chè mới như LDP1, Tri777, Phúc Vân Tiên…, hiện có 12,8ha chè của Làng nghề là giống Trung du. Gần 12 ha chè đã được Làng nghề trồng theo tiêu chuẩn VietGAP từ năm 2016. Năng suất bình quân đạt 110 tạ chè búp tươi/ha/năm. Bên cạnh các sản phẩm chè búp khô thông thường với giá từ 200.000-250.000 đồng/kg thì nay một số hộ đã sản xuất được những sản phẩm cao cấp hơn như: Chè Tôm nõn có giá 600.000-800.000 đồng/kg, chè Móc câu đặc biệt có giá 500.000đồng/kg…

Nhằm nâng cao giá trị cho cây chè, thời gian tới, Làng nghề sẽ tiếp tục đổi mới kỹ thuật, nâng cao năng suất, chất lượng chè, phấn đấu tăng tổng diện tích chè VietGAP lên hơn 15ha.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét