Thứ Ba, 26 tháng 5, 2020

một trong những công dân trẻ có uy tín trong nghề làm chè thái nguyên đặc sản của làng


Về Thác Dài xem làm chè Thái Nguyên đặc sản
Cập nhật ngày: 31/03/2009 07:57 (GMT +7)
Nói đến chè Thái Nguyên, người ta nghĩ ngay tới những vùng chè nổi tiếng: Tân Cương, La Bằng hay Trại Cài, Khe Cốc… Nhưng giờ đây, mọi người lại được biết thêm một vùng chè đặc sản nữa, đó là chè Thác Dài. Chè Thác Dài có vị đượm, thơm, ngon không kém bất cứ vùng chè đặc sản nào trong tỉnh. Người làm chè ở đây vẫn giữ được những nét đặc trưng của kỹ thuật chế biến chè truyền thống.
Thác Dài là một trong hai làng nghề điểm của tỉnh, nằm cách trung tâm xã Tức Tranh (Phú Lương) 2km về phía Đông. Khi được biết đây là vùng chè đặc sản đang trong quá trình xây dựng thương hiệu, tôi đã rất tò mò muốn trực tiếp đến Thác Dài để thưởng thức hương vị chè thơm ngon ngay tại nơi sản xuất và muốn biết bí quyết làm chè đặc sản của các nghệ nhân.

Đường vào Thác Dài tuy nhỏ nhưng được thảm bê tông phẳng lỳ. Cổng làng đang được xây dựng với dòng chữ "Làng nghề chế biến chè Thác Dài". Hai bên đường là những dãy đồi hình bát úp nằm sát nhau và đều được phủ kín bởi màu xanh của chè và rừng trồng. Gần như đâu có đất là chỗ đó có chè. Người dân trong xóm còn đưa cả cây chè (chủ yếu là chè cành) xuống những chân ruộng cao thay thế những cây trồng một vụ, hiệu quả thấp. Cả xóm Thác Dài có 60 hộ dân thì cả 60 hộ đều trồng chè và sống vào nghề làm chè. Diện tích trồng chè của xóm hiện có 25ha, vượt quá nửa diện tích đất tự nhiên, trong đó có 6ha chè cành. Bà con ở đây chủ yếu là người miền xuôi từ các tỉnh Hà Tây (cũ), Hưng Yên lên lập nghiệp từ những năm 60 của thế kỷ trước. Công dân của xóm là những người rất chịu thương, chịu khó, biết tận dụng từng thửa đất, mảnh đồi để trồng chè. Ngày ngày họ cùng nhau lên đồi chăm bón, thu hái chè tươi, tối về nhà nào nhà nấy thắp điện sáng lên sao chè. Vào thời điểm chính vụ, nhiều nhà đã cắt cử người thay phiên nhau sao, vò chè đến tận sáng hôm sau để kịp giao hàng cho khách.

Do có điều kiện thổ nhưỡng, nguồn nước phù hợp, cộng với áp dụng kịp thời các tiến bộ kỹ thuật nên cây chè ở đây phát triển nhanh, đều, búp chè to mập, xanh mượt, vị ngọt mát khác thường, nhiều vùng chè không có. Người làm chè trong làng luôn tuân thủ nghiêm ngặt kỹ thuật chăm bón, thu hái và sao sấy sao cho vừa đảm bảo quy trình sinh trưởng, phát triển của cây chè, vừa tạo ra những sản phẩm chè hảo hạng. Đặc biệt, các nghệ nhân trong làng nghề không bao giờ dễ dãi, chạy theo thị trường, tự đánh mất uy tín của những sản phẩm làm ra.

Để đạt được mong muốn tìm hiểu bí quyết làm chè của các nghệ nhân trong làng, chúng tôi đã mất cả buổi tò mò tìm hiểu, đến nhà ai cũng hỏi, cũng xem và ghi chép cẩn thận. Nhà đầu tiên chúng tôi đến là gia đình anh Nguyễn Văn Hà, một trong những công dân trẻ có uy tín trong nghề làm chè thái nguyên đặc sản của làng. Năm nay anh mới ngoài 30 tuổi những cũng có thâm niên gần 20 năm trực tiếp làm chè. - Anh có bí quyết gì để làm chè đặc sản? Tôi hỏi. Vừa đưa chén chè xanh nóng hổi về phía tôi, anh Hà vừa nói: Muốn có chè ngon phải làm tốt cả quy trình từ trồng, chăm sóc đến thu hái, sao vò và lấy hương. Nhà tôi có 2.000m2 chè, mỗi năm hai lượt bón phân đạm, lân và mỗi lứa một lần bón phân kali, thấy cây phát triển nhanh, cho nhiều búp. Về thu hái, gia đình luôn tuân thủ quy trình hái một tôm hai lá, hái đến đâu hết đến đó. Sao, vò và lấy hương là khâu quan trọng nhất. Mỗi mẻ chè cho vào tôn quay chỉ nên cho vừa đủ khoảng 2,5kg để đảm bảo sao ốp, sau đó cho ra vò. Cứ được hai mẻ như vậy lại gộp vào thành một mẻ mới để sao thành phẩm. Cuối cùng là khâu lấy hương, lúc này lượng chè trong tôn phải nhiều lên, khoảng 4-5kg. Đảm bảo được quy trình này thì cánh chè sẽ rất xanh, được nước, có mùi thơm và vị ngậy.

Nơi tiếp theo chúng tôi đến là nhà anh Trần Văn Quý có diện tích trồng chè trên 5 nghìn m2, trong đó 1 nghìn m2 chè cành. Khi được hỏi về làm chè đặc sản, anh niềm nở cho biết: Khi đã ở vùng chè ngon, chỉ cần tuân thủ mấy điểm sau là có thể chế biến được chè đặc sản: Thứ nhất, bón phân cân đối để búp chè luôn xanh và tươi. Trong chế biến từ sao, ốp, lấy hương cần yêu cầu chè phải khô kiệt, không được sống thì cánh chè mới ròn, thơm và được nước…

Được công nhận làng nghề chế biến chè từ cuối năm 2008, giờ đây người dân trong xóm đang nỗ lực xây dựng thương hiệu chè Thác Dài với mong muốn tạo tiếng thơm chung cho các sản phẩm mang tên "chè Thái". Để tạo dựng thương hiệu, mỗi gia đình đều cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm chè làm ra. Ông Phạm Văn Nang, Trưởng xóm và cũng là một trong những hộ dân làm chè có hạng của xóm cho biết: Với diện tích chè gần 1ha, mỗi lứa gia đình tôi thu được khoảng 2 tạ chè búp khô. Ngay từ đầu, gia đình tôi đã xác định đưa 100% diện tích vào chế biến chè đặc sản. Làm ra đến đâu khách về tận nhà mua hết đến đó. Nhiều khách mua số lượng lớn phải đặt trước mới có hàng. Từ cây chè, mỗi năm gia đình ông Nang thu về khoảng 70 triệu đồng. Về phát triển làng nghề và xây dựng thương hiệu chè thái nguyên Thác Dài, ông Nang cho rằng, từ trước đến nay người dân trong xóm chỉ biết nhà nào nhà nấy làm, tự học, tự mày mò. Người có kinh nghiệm, bí quyết làm được chè ngon thì bán với giá cao, còn lại đều mang ra các chợ bán chè mộc, giá rẻ. Bởi vậy, việc tạo thành mối liên kết cùng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chè ở Thác Dài bấy lâu nay rất lỏng lẻo.

Để góp phần giải quyết vấn đề này, tỉnh đã xây dựng dự án về phát triển làng nghề, trong đó Thác Dài được chọn làm một trong hai làng nghề điểm của tỉnh. Dự án đang được xúc tiến mạnh mẽ với việc mở các lớp tập huấn kỹ thuật, hỗ trợ khoa học công nghệ, bao tiêu sản phẩm và xây dựng thương hiệu cho làng nghề. Như vậy, tới đây làng nghề Thác Dài sẽ dần trở thành mô hình sản xuất khép kín mang tính công nghiệp, có khả năng tự quản cao.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét